Quốc hội vừa thông qua nhiều luật quan trọng
Sáng nay (20-11), các đại biểu Quốc
hội họp tại hội trường, biểu quyết, thông qua Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật luật sư; Luật điện lực; Luật quản lý thuế; Luật dự trữ quốc
gia; Luật hợp tác xã (sửa đổi); Luật xuất bản (sửa đổi).
Buổi chiều, các đại biểu thảo luận
về dự án Luật khoa học và công nghệ (sửa đổi).
Giảng viên luật không được hành
nghề luật sư
Quốc hội đã biểu quyết thông qua
nội dung này sáng 20-11 với 62,27% ý kiến đại biểu tán thành.
Về việc cho phép viên chức đang làm
công tác giảng dạy pháp luật được hành nghề luật sư, Báo cáo giải trình, tiếp
thu ý kiến của Ủy ban thường vụ Quốc hội được trình bày sáng 20-11 cho biết,
qua thảo luận và xin ý kiến bằng phiếu, các đại biểu Quốc hội có hai loại ý
kiến chủ yếu.
Loại ý kiến thứ nhất tán thành với
dự thảo Luật, theo đó không cho phép quy định viên chức đang làm công tác
giảng dạy pháp luật hành nghề luật sư.
Loại ý kiến thứ 2 đề nghị chỉnh lý
quy định tại điểm b khoản 4 Điều 17 dự thảo Luật theo hướng cho phép viên
chức đang làm công tác giảng dạy pháp luật luật hành nghề luật sư (trong đó,
nhiều ý kiến đề nghị cho phép đối tượng trên được hành nghề luật sư nhưng chỉ
ở lĩnh vực tư vấn pháp luật).
Các ý kiến thứ 2 cho rằng, quy định
như vậy sẽ tạo ra cơ chế thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao bổ sung cho
đội ngũ luật sư, vừa phát huy năng lực chuyên môn, vừa giúp đội ngũ giảng
viên pháp luật có điều kiện kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, qua đó nâng
cao năng lực chuyên môn của đội ngũ này.
Báo cáo giải trình của Ủy ban
thường vụ Quốc hội cho rằng việc cho phép viên chức làm công tác giảng dạy
pháp luật được hành nghề luật sư sẽ làm phân tán nguồn lực, ảnh hưởng đến
hoạt động chuyên môn giảng dạy và khó bảo đảm chất lượng hành nghề luật sư
trong khi số giảng viên đại học chuyên ngành luật so với yêu cầu phát triển
còn rất thiếu.
Hơn nữa, bên cạnh những lợi thế như
loại ý kiến thứ hai đã nêu, nếu cho phép viên chức làm công tác giảng dạy
pháp luật được kiêm nhiệm hành nghề luật sư cũng chưa khắc phục được những
hạn chế căn bản của hành nghề luật sư những năm vừa qua.
Ngoài ra, nếu chỉ cho phép đối
tượng nói trên hành nghề luật sư ở lĩnh vực tư vấn pháp luật thì sẽ hình
thành hai loại luật sư: luật sư tư vấn và luật sư tranh tụng. Điều này không
phù hợp với quy định hiện hành và cũng không giải quyết được vấn đề bức xúc
nhất hiện nay là rất thiếu luật sư tham gia tố tụng, đặc biệt là trong hoạt
động tố tụng hình sự.
Hơn nữa, hoạt động tư vấn pháp luật
của viên chức giảng dạy pháp luật đã được pháp luật hiện hành điều chỉnh, nên
không cần thiết bổ sung trong Luật này.
Từ những lý do nêu trên, Ủy ban
thường vụ Quốc hội đề nghị Quốc hội cho giữ quy định về vấn đề này như điểm b
khoản 4 Điều 17 dự thảo Luật.
Quốc hội đã biểu quyết thông qua
nội dung này với 330/470 ý kiến đại biểu có mặt tán thành, chiếm 62,27% trước
khi thông qua toàn văn Luật với 90,16% ý kiến tán thành.
Theo đó, điểm b khoản 4 Điều 17 quy
định: Người đang là cán bộ, công chức, viên chức; sĩ quan, quân nhân chuyên
nghiệp, công nhân quốc phòng trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân;
sĩ quan, hạ sĩ quan, công nhân trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân
thì không được cấp Chứng chỉ hành nghề luật sư.
Thông qua Luật Dự trữ quốc gia
Trong buổi sáng, Quốc hội cũng đã
biểu quyết thông qua luật Dự trữ quốc gia với 471/472 ý kiến tán thành (chiếm
94,58%).
Luật quy định mục tiêu của dự trữ
quốc gia (DTQG) là Nhà nước hình thành, sử dụng dự trữ quốc gia nhằm chủ động
đáp ứng yêu cầu đột xuất, cấp bách về phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên
tai, thảm họa, hỏa hoạn, dịch bệnh; phục vụ quốc phòng, an ninh.
Chế độ, chính sách đối với
công chức, viên chức DTQG
Báo cáo tiếp thu, giải trình của Ủy
ban thường vụ Quốc hội cho biết một số ý kiến đề nghị có chế độ, chính sách
riêng đối với người làm công tác DTQG. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng,
không nên áp dụng chế độ riêng đối với những người làm công tác DTQG hoặc chỉ
nên áp dụng đối với một số đối tượng làm công tác DTQG tại vùng sâu, vùng xa,
tiếp xúc trực tiếp với các hóa chất độc hại…
Uỷ ban Thường vụ Quốc hội cho rằng,
trên thực tế, người làm công tác DTQG có điều kiện làm việc đặc thù,
có khó khăn riêng (phải làm việc trong nhiều tình huống khẩn cấp, nguy
hiểm). Vì vậy, cần có chính sách động viên, khuyến khích người lao
động gắn bó với công tác DTQG, nhưng mặt khác, cũng bảo đảm tính công bằng
giữa người làm trực tiếp công tác DTQG với người chỉ làm công tác hành chính
tại các bộ, ngành. Do đó, UBTVQH tiếp thu, chỉnh sửa và trình Quốc hội xem
xét.
Theo đó, Điều 9 của Luật Dự trữ
quốc vừa được Quốc hội thông qua gia quy định: Người làm công tác dự trữ quốc
gia bao gồm: Công chức, viên chức làm việc tại cơ quan quản lý dự trữ quốc
gia chuyên trách; người làm công tác dự trữ quốc gia là quân nhân, công an
thì được hưởng phụ cấp thâm niên; tùy theo lĩnh vực, tính chất công việc được
hưởng phụ cấp ưu đã nghề.
Như vậy, công chức, viên chức làm
công tác DTQG tại các bộ, ngành không được hưởng chính sách trên.
Quy định danh mục hàng dự trữ quốc
gia
Điều 27 của Luật quy định các mặt
hàng thuộc Danh mục hàng dự trữ quốc gia phải đáp ứng mục tiêu dự trữ quốc
gia được quy định tại Điều 3 và một trong các tiêu chí: Là mặt hàng chiến
lược, thiết yếu, có tần suất sử dụng nhiều, có tác dụng ứng phó kịp thời
trong tình huống đột xuất, cấp bách; Là mặt hàng đặc chủng, không thể thay
thế; Là vật tư, thiết bị, hàng hóa bảo đảm quốc phòng, an ninh mà sản xuất
trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu về số lượng, chất lượng, chủng loại.
Điều 27 cũng quy định Danh mục hàng
dự trữ quốc gia bao gồm các nhóm hàng: Lương thực; Vật tư, thiết bị cứu hộ,
cứu nạn; Vật tư thông dụng động viên công nghiệp; Muối trắng; Nhiên liệu; Vật
liệu nổ công nghiệp; Hạt giống cây trồng; Thuốc bảo vệ thực vật; Hóa chất khử
khuẩn, khử trùng làm sạch môi trường, xử lý nguồn nước sinh hoạt và trong
nuôi trồng thủy sản; Thuốc phòng, chống dịch bệnh cho người; Thuốc phòng,
chống dịch bệnh cho gia súc, gia cầm, cây trồng, nuôi trồng thủy sản; Vật tư,
thiết bị, hàng hóa phục vụ quốc phòng, an ninh.
Trong trường hợp cần điều chỉnh
Danh mục hàng dự trữ quốc gia, Chính phủ trình Ủy ban thường vụ Quốc hội
xem xét, quyết định.
Hợp tác xã được cung cấp sản phẩm
ra thị trường
Quốc hội đã biểu quyết thông qua
Luật Hợp tác xã (sửa đổi) với 436/463 ý kiến tán thành (87,55%).
Báo cáo tiếp thu, giải trình ý kiến
của các đại biểu Quốc hội do Ủy viên Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy
ban kinh tế của Quốc hội Nguyễn Văn Giàu trình bày cho biết, có ý kiến đề
nghị cho phép hợp tác xã được quyền cung cấp sản phẩm, dịch vụ
rộng rãi ra thị trường để hợp tác xã phát triển và khẳng định
quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhận
thấy, khác với mô hình hợp tác xã kiểu cũ, hợp tác xã kiểu mới
hoạt động nhằm mục đích tập trung mang lại lợi ích cho thành viên thông qua
việc cam kết cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm theo nhu cầu của
thành viên.
Để đạt mục đích đó, hợp tác xã tự
chủ trong hoạt động, có quyền được cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc
làm cho cả đối tượng không phải là thành viên.
Tuy nhiên, để hoạt động đúng bản
chất, hợp tác xã phải bảo đảm lợi ích cho thành viên lớn hơn so với đối tượng
không phải thành viên, do vậy, dự thảo Luật được thiết kế theo hướng hợp
tác xã có quyền cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm ra thị
trường, nhưng phải bảo đảm hoàn thành cam kết nghĩa vụ đối với thành viên.
Khoản 3 và 4 Điều 8 đã được Quốc
hội thông qua quy định về quyền của hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã nêu rõ:
“Tiến hành các hoạt động sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm theo ngành, nghề
đã đăng ký nhằm đáp ứng nhu cầu chung của thành viên, hợp tác xã thành viên;
Cung ứng, tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ, việc làm cho thành viên, hợp tác xã
thành viên và ra thị trường nhưng phải bảo đảm hoàn thành nghĩa vụ đối với
thành viên, hợp tác xã thành viên.”
Quy định về Liên minh hợp tác xã
Báo cáo giải trình của Ủy ban
thường vụ Quốc hội cho biết, có ý kiến cho rằng, xét về bản chất, liên
minh hợp tác xã là tổ chức đại diện do các hợp tác xã tự nguyện thành lập và
hoạt động theo quy định pháp luật chung về hội, đề nghị cân nhắc bỏ Điều
58 trong dự thảo Luật (Điều 58: Tổ chức liên minh hợp tác xã Việt Nam, tổ
chức liên minh hợp tác xã tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương).
Có ý kiến cho rằng dự thảo Luật
quy định liên minh hợp tác xã được thành lập ở Trung ương và cấp
tỉnh là chưa bảo đảm nguyên tắc tự nguyện, tự chủ; có ý kiến đề
nghị nên mở rộng hệ thống liên minh đến cấp huyện.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho rằng,
liên minh hợp tác xã là tổ chức đại diện của hợp tác xã và thực
tế đang tồn tại cơ cấu tổ chức, hoạt động của liên minh ở cấp trung
ương và cấp tỉnh; điều lệ hoạt động được cơ quan Nhà nước phê duyệt.
Đồng thời, thực trạng hoạt động hợp tác xã còn nhiều hạn chế, nên
cần Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện để liên minh hợp tác xã hoạt
động nhằm phát triển phong trào hợp tác xã ở nước ta đúng với tinh
thần Nghị quyết Trung ương 5 Khóa IX.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội,
Ủy ban Thường vụ Quốc hội chỉnh lý theo hướng tôn trọng nguyên tắc tự
nguyện, tự chủ của tổ chức đại diện hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã, đồng
thời ghi nhận vai trò của liên minh hợp tác xã.
Tại Điều 58 của Luật Hợp tác xã
(sửa đổi) đã được Quốc hội thông qua quy định rõ: Liên minh hợp tác xã Việt
Nam được thành lập ở trung ương; liên minh hợp tác xã cấp tỉnh được thành lập
ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Điều lệ liên minh hợp tác xã
Việt Nam được đại hội liên minh hợp tác xã Việt Nam thông qua và do Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt; điều lệ liên minh hợp tác xã cấp tỉnh được đại hội liên
minh hợp tác xã cấp tỉnh thông qua và do Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh
phê duyệt.
Chưa cho phép tư nhân thành lập nhà
xuất bản
Sáng 20-11, các đại biểu Quốc hội
biểu quyết thông qua Luật Xuất bản (sửa đổi) với 92,37% ý kiến tán thành.
Trước khi biểu quyết thông qua toàn
văn Luật Xuất bản (sửa đổi), Quốc hội đã biểu quyết thông qua điều Điều 12 về
Đối tượng thành lập nhà xuất bản và loại hình tổ chức nhà xuất bản với 93,17%
ý kiến tán thành.
Theo đó, Điều 12 quy định: Cơ quan,
tổ chức được thành lập nhà xuất bản gồm: Cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương và cấp tỉnh; Đơn vị sự nghiệp công
lập ở trung ương, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở trung ương trực
tiếp sáng tạo ra tác phẩm và tài liệu khoa học, học thuật. Nhà xuất bản tổ
chức và hoạt động theo loại hình đơn vị sự nghiệp công lập hoặc doanh nghiệp
kinh doanh có điều kiện do Nhà nước là chủ sở hữu.
Trước đó, Báo cáo tiếp thu, giải
trình ý kiến của đại biểu Quốc hội về Luật xuất bản (sửa đổi) do Ủy viên Ủy
ban thường vụ Quốc hội, Chủ nhiệm Ủy ban văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu
niên và nhi đồng của Quốc hội Đào Trọng Thi trình bày cho biết: Một số ý kiến
đề nghị mở rộng đối tượng thành lập và loại hình tổ chức nhà xuất bản, cho
phép tư nhân tham gia thành lập nhà xuất bản.
Có ý kiến cho rằng, quy định đối
tượng thành lập nhà xuất bản như dự thảo Luật là quá rộng sẽ dẫn đến tình
trạng thành lập nhà xuất bản tràn lan, khó khăn cho công tác quản lý.
Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng,
Điều 12 của dự thảo Luật được thiết kế theo hướng kế thừa Luật hiện hành và
cụ thể hóa đối tượng được thành lập nhà xuất bản, trong đó luật hóa những nội
dung phù hợp đã được kiểm chứng trong thực tiễn của Nghị định số
72/2011/NĐ-CP ngày 23/8/2011của Chính phủ trong đó quy định bổ sung các tổ
chức được thành lập nhà xuất bản, do đó không giao Chính phủ quy định về đối
tượng khác được thành lập nhà xuất bản.
Để đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động
xuất bản, dự thảo Luật đã mở rộng hợp lý sự tham gia của tư nhân trong các
khâu khác nhau của hoạt động xuất bản. Tuy vậy, vì hoạt động xuất bản thuộc
lĩnh vực văn hóa - tư tưởng, cho nên để bảo đảm điều kiện có thể quản lý,
kiểm soát được nội dung văn hóa – tư tưởng của xuất bản phẩm, Ủy ban thường
vụ Quốc hội đề nghị chưa cho phép tư nhân thành lập nhà xuất bản.
Xuất bản và phát hành xuất bản phẩm
điện tử
Báo cáo giải trình cho biết có ý
kiến đề nghị quy định chi tiết để điều chỉnh lĩnh vực xuất bản và phát hành
xuất bản phẩm điện tử mà không giao cho Chính phủ quy định.
Ủy ban thường vụ Quốc hội cho rằng,
dự thảo Luật lần này đã bổ sung một chương riêng về xuất bản, phát hành xuất
bản phẩm điện tử trên cơ sở kế thừa những quy định từ Luật hiện hành, nghiên
cứu bổ sung những quy định mới về xuất bản, phát hành xuất bản phẩm điện tử
cập nhật hơn với sự phát triển công nghệ thông tin và hoạt động xuất bản điện
tử trong nước cũng như trên thế giới hiện nay. Những quy định này phù hợp,
thống nhất với các quy định của pháp luật về viễn thông, công nghệ thông tin,
giao dịch điện tử của Việt Nam.
Tuy nhiên, xuất bản điện tử là vấn
đề mới, đang trong quá trình vận động, phát triển không ngừng, hơn nữa cũng
mới là bước đầu hình thành ở Việt Nam trong những năm gần đây.
Do vậy, để vận dụng một cách linh
hoạt trước sự phát triển của công nghệ thông tin trong thời gian tới cũng như
giữ được sự ổn định về hiệu lực thực thi Luật sau khi ban hành, thì nội dung
này cần được quy định theo hướng mở và giao cho Chính phủ hướng dẫn thi hành.
Theo VOV
|
Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012
15:14
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét