13:15
Nợ công, nợ ngân hàng của Việt
Số liệu về nợ công và nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng là những số
liệu cần thiết để đánh giá nền kinh tế Việt
Tuy nhiên mới đây Bộ Tài chính qua báo
cáo của ông Vương Đình Huệ với Quốc hội đã công bố nợ của doanh nghiệp nhà
nước (DNNN), chính phủ cũng công bố nợ công, và lần đầu tiên Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam công bố trên mạng của họ một vài số liệu về tín dụng ngân hàng.
Những số liệu này chỉ có cho năm 2011
dù không đầy đủ và lại không cập nhật hàng quí theo truyền thống quốc tế
nhưng cũng là dấu hiệu đáng mừng. Hình như chính phủ muốn minh bạch hơn một
chút. Chính sự thiếu minh bạch này đã làm cho các bàn thảo về chính sách
thiếu cơ sở, thậm chí đưa đến những hành động sai lầm.
Bài viết ngắn này chỉ nhằm trình bày
một số thông tin về nợ công, và nợ qua hệ thống tín dụng ngân hàng, dựa vào
số liệu vừa mới được cơ quan có trách nhiệm của nhà nước cung cấp thay vì
những số liệu mà người viết phải nhặt nhạnh khắp nơi để tổng kết lại một cách
không chính thức.
Nợ công
Nợ công theo định nghĩa của Việt
Nợ công theo định nghĩa quốc tế bao gồm
nợ theo định nghĩa của Việt
Bảng 1. Nợ công của Việt
Nguồn và chú
thích: Vương Đình Huệ, Bộ Tài chính.Trong nợ nước ngoài của DNN có thể
có một phần do chính phủ bảo lãnh cho nên tổng nợ có tính trùng, phải trừ đi
khỏi nợ DNNN, cao nhất là 14 tỉ.
Như vậy là tổng nợ công theo định nghĩa
quốc tế vào cuối năm 2011 đã là 128.9 tỷ USD bằng 106% GDP (121.7 tỷ USD),
cao hơn 90 tỷ USD mà trước đây tác giả ước tính ở mức tối thiểu.
Tổng số nợ của DNNN là 62.1 tỷ USD bằng 55%
GDP.
Mức trần tỷ lệ nợ công trên GDP không
quá 65% GDP vào năm 2015 mà chính phủ đề nghị Quốc hội đã bị vượt qua từ lâu
rồi. Không ý thức được điều này thì chính sách trong tương lai sẽ không thể
phù hợp.
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực
trả nợ
Theo ông Huệ, hệ số nợ trên tính trên
vốn tự có là 1,77. Thông thường, người có 1 đồng vốn có thể dễ dàng đi vay
thêm 1 đồng vốn nữa như vậy thì tỷ lệ trên là 1. Nếu tỷ lệ càng cao thì mức
rủi ro trong sản xuất càng lớn vì áp lực phải trả lãi.
Với hệ số nợ là 1,77, thì 64% là vốn
vay. Chúng ta có thể dễ dàng làm mô hình về khả năng phá sản của công ty. Thí
dụ nếu lãi suất trả nợ là 15% nhưng lợi nhuận chỉ là 10% trên vốn đầu tư thì
lợi nhuận (tính theo doanh thu trừ chi phí phi tài chính) chỉ đủ trả lãi. Nếu
lợi nhuận thấp hơn 10% thì công ty lỗ, mất khả năng trả nợ. Phải chăng đây là
trường hợp của hầu hết DNNN và cả DNTN hiện nay?
Theo ông Huệ, có đến 30 tập đoàn, tổng
công ty hệ số nợ phải trả/vốn chủ sở hữu lớn hơn 3 lần. Trong đó có 8 đơn vị
có hệ số trên 10 lần, 10 doanh nghiệp từ 5 – 10 lần, 12 tập đoàn, tổng công
ty từ 3 - 5 lần. Như vậy có lẽ 30 tập đoàn này đã mất khả năng trả nợ. Nếu
không giảm được lạm phát, qua đó giảm lãi suất thì doanh nghiệp nói chung khó
có khả năng sống còn.
Bảng 2. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
Phân tích hệ quả của nợ công: áp lực ngân
sách
Nếu 8,8% là nợ xấu thì tổng số nợ xấu
trong nợ công sẽ là 11,3 tỷ USD. So với tổng ngân sách thu của nhà nước năm
2011 là 33,8 tỷ USD bằng 28% GDP thì con số nợ xấu trên rất lớn, vượt ngoài
sức chịu đựng của ngân sách. Trong việc giải quyết nợ công xấu, ai sẽ là
người chịu thiệt? Không lẽ ngân sách chỉ dùng để trả nợ xấu? Hay in tiền tạo
lạm phát?
Nợ nước ngoài
Hiện nay nợ nước ngoài vẫn chưa được bộ
Tài chính công bố cho năm 2011. Con số năm 2010 ở bảng 3 là từ Bộ Tài chính,
nhưng con số năm 2011 là ước tính dùng tốc độ tăng của năm trước. Nợ nước
ngoài chưa phải là điều đáng lo vì nó chỉ bằng 39.8% GDP.
Tuy nhiên, nợ nước ngoài của khu vực
doanh nghiệp tăng mạnh những năm gần đây; điều này mới là đáng lo ngại vì
thường chúng là nợ trung hạn chứ không phải nợ dài hạn của chính phủ.
Bảng 3. Vốn tự có, nợ trong khu vực DNNN, 2011
Nợ ngân hàng nội địa
So với các nước trong khu vực, tín dụng
từ nguồn hệ thống tín dụng nội địa ở Việt Nam là rất cao; tỷ lệ tín dụng lên
tới 121% GDP, nhất là khi nền kinh tế Việt Nam còn ở mức thấp (bảng 4). Dựa
vào tín dụng thay vì vốn tự có để phát triển kinh tế dễ đẩy nền kinh tế đến
chỗ bong bóng. Tỷ lệ tín dụng cao so với GDP và cụ thể hóa trong Bảng 2 ở tỷ
lệ vốn vay trên vốn tự có đã nói rõ lên điều này.
Bảng 4. Tỷ lệ tổng dư nợ hệ thống tín dụng
trên GDP
Nguồn: Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for
Tổng nợ của DNNN được tính là 62,1 tỷ
USD (Bảng 1) trong khi theo báo cáo của Việt
Theo Bản tin số 7 của Bộ tài chính, nợ
nước ngoài của DNNN cao nhất là 11,5 tỷ USD (vì con số này gồm cả nợ của
doanh nghiệp tư nhân). Vậy thì 26,5 tỷ USD còn lại trong nợ của DNNN ở đâu mà
ra. Có lẽ NHNN đã tính sai nợ tín dụng DNNN vào nợ tư nhân không chừng?
Bảng 5. Dư nợ của hệ thống ngân hàng, 2011
Nguồn: ADB Asian Development Bank (ADB), Key Indicators for
Phân phối tín dụng trong hệ thống ngân hàng
Có thể dựa vào số liệu từ NHNN và Tổng
cục Thống kê để thấy rằng, phân phối tín dụng trong hệ thống không phản ánh
hoạt động chung của nền kinh tế.
Nông nghiệp, thủy sản, lâm sản chỉ được
hưởng tỷ lệ tín dụng bằng gần ½ tỷ lệ đóng góp vào nền kinh tế. Ngược lại xây
dựng được gần gấp đôi.
Nhưng hầu hết tín dụng (67%) là chui
vào khu vực thương mại và dịch vụ, gấp gần gấp hai lần so với mức đóng góp
của chúng vào nền kinh tế.
Hình như đây là lần đầu tiên NHNN công
bố số liệu như thế này. Thật ra chúng cần được công bố thường xuyên vì vấn đề
được đặt ra là hệ thống ngân hàng phục vụ ai trong nền kinh tế.
Bảng 6. Phân phối dư nợ tín tụng trong nền
kinh tế, tháng 7 năm 2012
Nguồn: Ngân
hàng Nhà nước
Để kết luận, có thể tóm tắt vài điều nhận xét
sau:
a) Kinh tế Việt
b) Tín dụng của hệ thống ngân hàng được
phân phối chủ yếu (67%) vào những hoạt động dịch vụ không rõ ràng. Những hoạt
động này có thể là những hoạt động đầy rủi ro như chứng khoán, mua địa ốc
(khác hoàn toàn với hoạt động xây dựng tạo ra việc làm), lập ngân hàng, v.v.
Có thể nói dường như hệ thống ngân hàng Việt Nam hoạt động không nhằm phục vụ
sản xuất.
c) Để có thể cải cách và bốc thuốc đúng
lúc, các cơ quan quản lý nhà nước cần minh bạch số liệu thường xuyên, không
thể để tình trạng như hiện nay như đã vào cuối năm 2012 mà chỉ mới biết số
liệu năm 2011, thậm chí năm 2010. Số liệu tài chính tín dụng cần được xuất
bản hàng quí cho mọi người sử dụng.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét