Thứ Ba, 20 tháng 11, 2012

 
15:06

  Những điểm trường trên mây

Lớp học có kiến trúc kiểu chuồng trâu ở bản Tia Ma Mủ, cụm trường Nậm Ngà
Ngày thứ 10 của cuộc hành trình, chúng tôi trở lại cây cầu treo K43 để vượt sông Đà vào khu trung tâm xã Mường Mô (huyện Mường Tè, Lai Châu). Có cảm giác thật lạ, như vừa qua một giấc mơ về một cuộc phiêu lưu vào thế giới khác, một thế giới có rất ít dấu ấn của văn minh. Trong thế giới ấy, những người thầy - những người đi khai sáng cũng đang chịu rất nhiều tăm tối.
* Những ngôi trường giữa rừng

Nghe chúng tôi trình bày ý nguyện muốn đến hai khu trường ở Mường Mô 2 và Tà Tổng 2, ông Nguyễn Đức Hiển - Trưởng phòng GD huyện Mường Tè - ngần ngừ: “Đi bộ sẽ mất cả tháng, đi xe nhanh cũng 10 ngày, nhưng các nhà báo liệu có đi nổi bằng xe máy?”.

Những ngày đường xe máy

Ăn trưa ở trung tâm xã Mường Mô, anh em giáo viên đã giục “ăn nhanh để đi, phải vào đến Nậm Trà trước khi trời tối”. Từ trung tâm Mường Mô đến Nậm Trà đường dài chừng 40km. Cung đường ấy giáo viên nữ đi bộ 1 ngày, giáo viên nam đi được xe mất... nửa ngày. Đi rồi tôi mới hiểu đi xe máy trên này tốc độ cũng không hơn đi bộ là bao. Thường điểm trường nọ sang điểm trường kia là nửa ngày đường xe máy với trời không mưa. Trời mưa thì nhân thời gian lên gấp đôi, ấy là không ngã, không run tay mà quẳng xe lại giữa đường để... “đi bộ cho nó lành”. Hơn 4 giờ trên yên xe, vật nhau với con đường đất mà chiều ngang không bao giờ quá nửa mét, “núi một bên và vực một bên”, nhìn thấy khu trường THCS Nậm Trà – mấy ngôi nhà tranh lúp xúp mà mừng như trẻ thấy mẹ đi chợ về. Trước, con đường ấy là đường mòn đi bộ, mấy năm nay xã hội đi lên, bà con san gạt thêm cho cái bánh xe lăn.

Đi xe máy mà lắm khi thở hồng hộc như đi bộ leo dốc, 4 lần chúng tôi phải nghỉ cho mát máy xe, cũng là cho đôi tay, đôi chân đỡ chuột rút. Cả chặng đường cứ số 1 mà bò, máy gầm như công nông đầu ngang. Đã mấy lần muốn dừng lại để lắp bộ xích vào bánh sau cho chắc lại thôi, các thầy chưa lắp, mình làm sớm nghe kỳ kỳ, kém cái... đàn ông. Đến được trường khi trời bắt đầu tắt nắng, không ngã cái nào, dù mấy lần phải dúi xe vào vách núi để tránh lao xuống vực, thực là mừng, muốn cảm ơn thầy giáo đã nhắc mình ăn nhanh còn đi.

Từ Nậm Trà nhìn bốn phía chỉ thấy rừng, núi, đến cái vết loang lổ của những con người mở ra trên các triền núi tạo đường cũng không còn thấy. Cuộc sống văn minh đều đã “khuất núi”, chúng tôi bắt đầu bước vào những ngày ở rừng thực sự. Điện không, điện thoại không, đúng hơn có đôi vệt sóng lạc từ Mường Nhé (Điện Biên) sang, thường chỉ có trên các đỉnh núi cao, bò ngược dốc hàng giờ vào những ngày thật đẹp trời. Tìm được những vệt sóng này là bao kỳ công của những người đi “khai phá”, tìm sóng theo kiểu “dò mìn”, nó cũng gắn liền với bao nước mắt của thầy cô. Suốt 10 ngày của chuyến đi tôi không đủ kiên nhẫn, sức khỏe để trèo tìm sóng, thôi đành quên đi chiếc điện thoại. Nậm Trà (Mường Mô 2) nay đã có 3 trường học từ mầm non đến THCS; Nậm Ngà (Tà Tổng 2) có hai trường, hệ TH và THCS chưa tách, hai cụm trường xa nhất ở bờ hữu sông Đà ấy với gần 150 thầy cô giáo, đã hai năm nay quên rằng trên đời này còn có báo chí. Dù báo vẫn được phát, được đặt nhưng nó không bao giờ đến được với các thầy cô.

“Quyền được ngã”

Với các thầy cô giáo ở Nậm Trà, Nậm Ngà, việc ngã xe như là chuyện đương nhiên. Ở Nậm Ngà, xứ sở được coi là “huyền thoại đích thực” ở Mường Tè vì Tà Tổng đã là huyền thoại rồi, nó còn là Tà Tổng 2. Ở đây có một đội “tay đua” thượng hạng đếm gần đủ năm đầu ngón tay, những thầy mà sự ngã kể... cả năm không hết. Thầy Việt - giáo viên môn sinh khối THCS, thầy Cường - hiệu trưởng, thầy Đức - hiệu phó, thầy A Lầu... Thầy Việt cao 1m63, nặng 49 cân, cùng với A Lầu là tay lái chuyên chở thịt từ huyện vào cho học sinh. Mỗi chuyến hai thầy đi 2 ngày, chở 100kg thịt từ huyện Mường Tè vào. Cái món hàng vừa nặng vừa bùng nhùng ấy, không phải dạng cao thủ thì chỉ có xuống vực mà nhặt thịt lợn lẫn... thịt người.
 

Lớp học có kiến trúc kiểu chuồng trâu ở bản Tia Ma Mủ, cụm trường Nậm Ngà.

Mỗi chuyến chở thịt ấy các thầy tự khoán... không ngã quá 4 lần, có kinh nghiệm chỉ dúi đầu vào vách núi mà ngã. Tệ lắm thì quẳng xe xuống vực mà ngã ngược lại. Cách hôm chúng tôi vào 2 ngày, hai tay lái cứng nhất nhì thầy Việt, thầy Cường cũng vừa quẳng xe xuống vực để thoát thân. Cũng lạ, ngã nhiều nhưng chưa thầy cô nào bỏ mạng vì nó cả, tệ nhất cũng được mắc vào cành cây, để gào toáng gọi người khác kéo lên. Xước sát nhiều, nhưng gãy gì đó thì chưa. Cú ngã tệ nhất thuộc về thầy Nguyễn Văn Việt ở khu bản Cô Lô Hồ, khi bị xe đè lên người, ống xả chèn lên ngực, cháy thịt khét mù, nằm viện cả tháng.

Ngã là chuyện thường ngày nên các thầy nói vui là ở đây có “quyền được ngã”. Nhưng cũng có những chuyến xe không được quyền ngã. Đó là những chuyến xe đặc biệt chở trứng cho bữa ăn học sinh, mỗi chuyến 600 quả - tháng 4 chuyến và chở người ốm đi viện. Hôm chúng tôi đang ở Nậm Trà cũng có chuyến xe như thế, thầy Quàng Văn Dử bị sốt cao, phải ngồi sau xe, lấy dây buộc vào thầy Việt rồi cùng 1 xe nữa dong ra Mường Tè. Đi từ 8 giờ sáng đến 5 giờ chiều đến nơi an toàn. Một loại “hàng” nữa không được quyền ngã là cô giáo mang thai. Loại “hàng” này đặc biệt nhất, ngã là phạm “trọng tội”, bao năm qua, chưa một lần các thầy đánh ngã những cô giáo này. Nói là vậy nhưng khó nhất là chính các cô mới mang thai, chưa biết mình có, vẫn cứ tong tả trên đường, sẩy nhiều lắm. Ở Nậm Trà trong số các cô giáo có gia đình chỉ có 3 cô chưa bị hỏng thai lần nào, các cô sinh non, con nuôi lồng kính cũng có mấy người cũng chỉ vì con đường.

Những ngôi trường… kỳ kỳ
Vùng trắng
Hai cụm trường Nậm Trà, Nậm Ngà nằm bên bờ hữu sông Đà, giáp với huyện Mường Nhé (Điện Biên). Hai cụm 5 trường học từ THCS đến mầm non với 152 giáo viên, 1.276 học sinh các dân tộc Mông, Cống, Hà Nhì, Dao. Dân cư vùng này có tỉ lệ nghèo 70-80%, về cơ sở hạ tầng, điện, đường, trường, trạm... có thể coi là vùng trắng.
Nậm Trà, Nậm Ngà, tất cả có 15 điểm trường, ngay ở hai khu trung tâm cũng đã thấy nó kỳ rồi, các điểm khác mỗi điểm một vẻ theo... kiến trúc bản địa. Đại thể, bản nào làm lớp ấy, tùy theo điều kiện kinh tế, theo mức độ nhiệt tình với cái chữ mà dựng lên cái phòng học. Hầu hết là phòng có “kiến trúc” tre nứa, ngay Trường THCS Nậm Trà toàn bộ các phòng học đều làm lán tre nứa. Năm nay Mường Tè tre nứa khuy (nở hoa) lấy loại ấy về dùng mấy bữa đã thấy mọt rơi lả tả, gió chưa nổi đã kẽo kẹt rồi rung lên bần bật. Những điểm trường ấy bi hài thì có, còn độc đáo thì phải kể đến các dạng khác.

Độc đáo nhất phải kể đến lớp học với kiến trúc chuồng trâu ở bản Tia Ma Mủ (cụm trường Nậm Nhà - Tà Tổng). Ba phòng học cho các lớp tiểu học ở đây nếu mới đến, nhìn từ ngoài vào chắc chắn bảo là chuồng trâu. Lớp dựng trên cột, thay cho ván che là mấy tấm, nửa ván nửa giằng, bắc ngang nối các cột. Kiểu nối ngang như thể tiện đưa cỏ vào, cũng tiện cho trâu cọ sừng, cọ mình. Làm lớp học kiểu ấy có thể nói cũng là “sáng tạo” phòng học thoáng, ít bị tối, nhưng mà rét. Ngày rét trong lớp gió như ngoài sân, thầy trò co ro, có đốt đống lửa gió nó cũng lùa hơi đi mất, không đỡ được là mấy.

Thứ nhì độc đáo là lớp học dựng bằng củi ở bản U Na 1 cũng ở cụm trường Nậm Nhà (Tà Tổng). Không hiểu do vội hay thích tạo nên một ngôi trường lạ mà bản này dựng nên ngôi trường toàn bằng củi. Thật tiện, củi bắp nhà nào cũng sẵn, góp lại, cũng không cần phải đẽo gọt gì thêm, cứ thế dựng nên thay ván, xù xì một chút nhưng mà chắc. Vách ấy bọn trẻ đỡ nghịch, thớ gỗ tua tủa, nghịch vào không rách tay cũng rách quần áo. Tiện cho các thầy, cả phụ huynh đến thăm các thầy, hút thuốc lào cứ tước những dăm ấy làm đóm, lúc đêm hôm khỏi phải tìm xa. Cánh phóng viên chúng tôi thấy “kiến trúc lạ” lao vào chụp ảnh, rồi khoe nhau, hí hửng lắm. Mang khoe cả các thầy, thầy cũng phải khen rồi cười góp, mặt buồn thiu.

Độc nữa phải kể đến lớp học không tên ở bản Huổi Mắn (Trường TH Nậm Trà - Mường Mô 2). Bản Huổi Mắn chia làm 2 cụm dân cư Huổi Mắn A và B, có vùng đất trũng giáp sông Đà nằm trong vùng ngập thủy điện Lai Châu, trước dân từ cụm A và B chỉ xuống dựng lán ở tạm làm ruộng, nương. Không hiểu có phải “chạy” đền bù di dân tái định cư không mà 2 năm nay những lán này nâng cấp thành nhà đến mấy chục hộ. Theo người lớn là trẻ con, các thầy cô phải mở lớp cho chúng, dù không biết đặt tên lớp thế nào. Điểm trường với hai lớp học mầm non và lớp 1 cho gần 40 đứa trẻ ra đời như thế, mọi người gọi đùa là lớp học Không Tên. Cả điểm trường ấy cao chừng 2 mét, rộng chừng 20 mét vuông, dựng bằng nứa, lợp bằng gianh, cho 2 phòng học, thêm 2 phòng ở tạm của giáo viên. Thật may cô Quàng Thị Hoài, giáo viên mầm non bản ấy kịp làm vườn rau bên cạnh để nó thành “nhà”, chứ nếu không chúng tôi quyết không thể gọi nó là lớp được.
Đức Thảo (Báo Lao Động)
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét