15:01
Lời tôi hưởng, lỗ Nhà nước và nhân dân chịu
(TBKTSG)
- LTS: Dư luận đang quan tâm liệu có hay không việc nới lỏng chính sách tiền
tệ và tài khóa, đặc biệt là đầu tư công, trong những tháng cuối năm nay khi
mà tăng trưởng kinh tế được dự báo sẽ dưới 5% trong năm nay nếu không có
những giải pháp kịp thời. Chuyên đề tuần này của TBKTSG sẽ dành cho
các nhà điều hành kinh tế cũng như các chuyên gia kinh tế bày tỏ quan điểm về
vấn đề này.
Một năm trước cả nước ca thán về lạm phát cao, ai cũng
mong mặt bằng giá cả được kéo xuống. Bây giờ khi giá bắt đầu sụt giảm, dù vẫn
còn cao hơn so với cách đây một năm, người dân chưa kịp phấn khởi thì các
chuyên gia kinh tế lại cảnh báo nguy cơ giảm phát và suy thoái.
Thông tin về sức mua giảm, tồn kho tăng, doanh nghiệp phá
sản hàng loạt và dự báo GDP sẽ tăng dưới 5% tràn ngập mặt báo dường như đã
làm các nhà hoạch định chính sách sốt ruột. Ngân hàng Nhà nước (NHNN) bỏ
ngoài tai khuyến cáo của IMF, cắt giảm lãi suất liên tục và khi thấy tăng trưởng
tín dụng vẫn không nhúc nhích đã buộc các ngân hàng phải “đảo nợ” cho doanh
nghiệp với mức lãi suất trần 15%.
Chính phủ cũng quyết liệt không kém khi dự định sẽ tăng
tốc giải ngân đầu tư với tốc độ gấp rưỡi từ nay đến cuối năm, chưa kể nếu đề
án xử lý nợ xấu được thực hiện sẽ có hàng chục ngàn tỉ đồng được đẩy ra nền
kinh tế. Những động thái có tính phản ứng vô điều kiện (knee-jerk) này có thể
thúc đẩy tăng trưởng trong ngắn hạn nhưng sẽ đẩy lùi nhiều nỗ lực cải cách và
ổn định kinh tế mà Việt
Trước hết, cần phải thấy tăng trưởng kinh tế của
Việt
Lẽ ra, những cú sốc từ bên ngoài như vậy có thể được hấp
thụ bớt một phần nếu chính sách tỷ giá linh hoạt hơn nhưng tiếc là NHNN vẫn
khăng khăng giữ ổn định tỷ giá. Những biện pháp nới lỏng tiền tệ và tài khóa sẽ
kích thích tổng cầu trong nước nhưng không giúp hàng Việt
Thứ hai, kinh tế suy giảm đồng thời với lạm
phát hạ nhiệt là kết quả của những nỗ lực thắt chặt tiền tệ nhằm ổn định vĩ
mô trong hai năm qua. Giới doanh nghiệp buộc phải giảm bớt tỷ lệ vốn vay (deleveraging)
khi tín dụng bị thắt chặt. Hệ quả tất yếu là đầu tư giảm và quy mô sản xuất
thu hẹp.
Lạm phát trước đây do tăng trưởng quá nóng và đầu tư quá
mức cần thiết (overinvestment) nhưng không hiệu quả, bởi vậy giảm phát và
giảm đầu tư là điều nên có. Một giai đoạn suy giảm là điều kiện cần để nền
kinh tế đào thải những doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả, quá phụ thuộc
vào vốn vay, phụ thuộc vào đặc quyền, đặc lợi. Cuộc thanh lọc này nếu được kết
hợp với quá trình tái cấu trúc mạnh mẽ các doanh nghiệp nhà nước sẽ đẩy mạnh
năng suất của nền kinh tế trong tương lai. Giải cứu tất cả doanh nghiệp bằng
mọi giá có thể khôi phục tăng trưởng nhưng nền kinh tế sẽ ngày càng kém hiệu
quả và rủi ro tiềm ẩn càng cao.
Thứ ba, nếu các chính sách đối phó với suy giảm
kinh tế được tập trung vào trợ giúp người nghèo thay vì cấp tập hỗ trợ doanh
nghiệp, hố ngăn cách giàu nghèo vốn đã quá sâu sẽ được giảm bớt. Trong những
năm tăng trưởng nóng, một số người đã giàu lên nhờ vào cơ chế và dòng tín dụng
dễ dãi. Đa số dân chúng còn lại dù có thu nhập tăng lên nhưng phải đối mặt
với lạm phát cao và dịch vụ công ngày càng thu hẹp nên khả năng tích lũy rất
thấp.
Quá trình phân
tầng xã hội chỉ giảm tốc khi lạm phát và tăng trưởng hạ nhiệt. Nếu Chính phủ
tập trung nguồn lực xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và mạnh tay trợ cấp
người nghèo thì ảnh hưởng của suy giảm kinh tế sẽ giảm đáng kể, đó cũng sẽ là
nền móng cho một xã hội bình đẳng và ổn định hơn. Vung tay chi tiền thuế của dân
để cứu doanh nghiệp sẽ là hình thức chuyển ngược của cải từ đa số dân chúng
cho một tầng lớp nhỏ trong xã hội vốn đã giàu có. Nếu phải cứu một số
doanh nghiệp nào đó cần phải có cơ chế ràng buộc để họ phải chia sẻ một phần
lợi nhuận trong tương lai cho xã hội chứ không thể “lời tôi hưởng, lỗ Nhà
nước và nhân dân chịu”.
(Thời báo Kinh
tế SG) Lê Hồng Giang
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét