Việt Nam và các bảng xếp hạng quốc tế
Cập nhật lúc 14:41
Liệu đã bao
giờ, đã có ai tư duy về việc cuối cùng điều gì là thực sự hữu ích cho giáo
dục của Việt Nam nếu chúng ta không bị các bảng xếp hạng “định hướng”?
LTS: Trong thực tế, Việt Nam được đánh giá
khá cao trong một số bảng xếp hạng quốc tế như kỳ thi PISA về
năng lực Toán – Đọc hiểu và Khoa học.
Tuy nhiên, Việt Nam lại thiếu vắng nhiều
nhà khoa học, nhà sáng chế...
Nghiên cứu sinh về giáo dục Hoa Kỳ - Nguyễn
Thị Lan Hương cho rằng cần xem xét lại ý nghĩa của các bảng xếp hạng quốc tế
hiện nay.
Tác giả Lan Hương cũng đặt câu hỏi về điều
gì là thực sự hữu ích cho giáo dục của Việt Nam nếu chúng ta không bị các
bảng xếp hạng “định hướng”?
Tòa soạn trân trọng gửi cùng độc giả!
Trong các bản tin về Việt
Nam và quốc tế hiện nay, các thông tin về Việt Nam và thứ hạng của Việt Nam
trên nhiều khía cạnh, kinh tế, xã hội, chỉ số hạnh phúc, chỉ số môi trường và
đặc biệt là xếp hạng giáo dục, được đưa tin và thu hút sự quan tâm cũng như
bình luận của rất nhiều người trong xã hội.
Trong bài viết này, tôi
muốn chia sẻ một số các thông tin xếp hạng cụ thể, cách đánh giá xếp hạng và
những bình luận đi kèm, mong những bạn đọc như tôi và nhiều người khác, có
được những góc nhìn, những cách đánh giá và thẩm định thông tin.
Đồng thời, giúp cho chúng
ta hiểu được là xếp hạng, dù ở Việt Nam hay khu vực và quốc tế, mọi vấn đề
cũng chỉ là thông tin tham khảo.
Chúng ta cần sống trung thực với những câu
chuyện của bản thân và hãy tìm được giải pháp hữu ích cho chính chúng ta, dựa
trên nghiên cứu khoa
học và kinh nghiệm đã có từ trong quá khứ hay từ những bạn bè
xung quanh.
Thứ hạng trong kỳ thi PISA
Trong hai lần Việt Nam tham gia đánh giá
năng lực học sinh toàn cầu mà Tổ chức Hợp tác
và Phát triển Kinh tế (OECD) tổ chức (2012, 2015) dành cho
lứa tuổi 15 (lớp 8), cho các môn Toán – Đọc hiểu – Khoa học, học sinh Việt
Nam luôn đứng thứ hạng cao (xếp hạng 8 về năng lực Khoa học, 22 về Toán và 32
về Đọc hiểu – Xếp hạng 2015) [1], thậm chí vượt xa học sinh các nước phát
triển với đầu tư rất lớn cho giáo dục.
Điều này đã gây ngạc
nhiên cho tất cả các thành viên tham gia đánh giá, và thậm chí, tổ chức RISE
được thành lập và cấp ngân sách 4.2 triệu Euro [2] để nghiên cứu tìm hiểu
những lý do mà những nước như Việt Nam đã đạt được trong nền giáo dục khi mà
GDP trên đầu người còn khá thấp.
Theo đó, chúng ta rất tự
hào vì học sinh chúng ta, khi đem chuông so với xứ người, không làm hổ danh
đất nước.
Tuy nhiên, cũng như OECD
và nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế khác, những câu hỏi tiếp sau kết quả
PISA là, tại sao học sinh Việt Nam học Toán và Khoa học tốt, mà lại ít người
tiếp tục học khoa học?
Tại sao nền tảng khoa học
kỹ thuật, khoa học cơ bản của Việt Nam lại thiếu vắng nhiều nhà nghiên cứu
đến vậy?
Và nếu xét theo chỉ số
sáng tạo thông qua bằng sáng chế được cấp, tại sao chỉ số Việt Nam lại nằm ở
phần gần cuối của bảng xếp hạng?
Vâng, tại sao lại có
những nghịch lý này?
Nếu để lý giải vấn đề này
dựa trên nghiên cứu khoa học, có lẽ sẽ phải chờ 6 năm nữa, khi chương trình
của RISE kết thúc và họ đưa ra được một số đánh giá từ thực tế khảo sát giáo
dục của Việt Nam khi so sánh với các nước khác.
Tuy nhiên, cuộc trao đổi gần đây mà OECD
thực hiện với hơn 180 nhà giáo dục đến từ 100 nước [3] bàn về những chuẩn bị
cho sự thành công của học sinh trong thời kỳ công nghệ 4.0 sắp
tới cho thấy: Mặc dù Việt Nam có được xếp hạng cao trong đánh giá của OECD do
chúng ta “luyện” học sinh học cách giải Toán, giải Khoa học, giống như Singapore,
nhưng có lẽ chưa chú trọng vào phần “đam mê khoa học, đam mê sáng tạo” hay
“môi trường khuyến khích phát triển khoa học”.
Và cơ bản nhất là chúng
ta thiếu vắng kỹ năng “học để suy nghĩ trung thực, độc lập”, kỹ năng nền tảng
cho mọi nghiên cứu khoa học.
Việc chúng ta hiện nay
đang đi theo cách đánh giá học sinh nặng về điểm số của thi cử, loại hình
đánh giá dựa vào thi trắc nghiệm cũng là một số minh chứng cho việc tại sao
chúng ta có học sinh thi giỏi, nhưng không có nhà sáng chế giỏi.
Bộ trưởng của Singapore, trong một bài chia
sẻ với một trong những nhà bình luận xuất sắc của New York Times (GS. Fareed
Zakaria) đã thừa nhận: “Chúng tôi đã dạy cho học sinh biết làm bài thi
tốt, nhưng lại không biết dạy cách suy nghĩ như thế nào sẽ là tốt” [4].
Đây chính là điều cản trở
cho tư duy sáng tạo, tư duy phản biện và suy nghĩ độc lập của mà học sinh
trong thời đại kinh tế tri thức này cần có, theo OECD và nghiên cứu của NCEE
[5].
Xếp hạng tiếng Anh
Gần đây, chúng ta có đọc
được một bản tin thông báo rằng Việt Nam đứng thứ 7 trong các nước Châu Á về
khả năng tiếng Anh và đứng thứ 31/72 các quốc gia mà khảo sát được thực hiện
[6].
Đây là một tin mừng cho
chúng ta, vì như vậy, chúng ta đang tiệm cận dần với trình độ tiếng Anh của
thế giới.
Tuy nhiên, mặc dù chúng
ta có được xếp hạng như vậy về tiếng Anh, một thực tế khác cũng cần được nhắc
đến: trên 90% học sinh phổ thông của chúng ta không đạt được điểm trung bình
về tiếng Anh khi thi tốt nghiệp năm 2016 [7].
Theo GS. Nguyễn Quốc
Hùng, người có nhiều năm dạy tiếng Anh cho biết, điều này xuất phát từ
“phương pháp dạy và học tiếng Anh của chúng ta chưa đúng”.
Và cũng do bởi chúng ta
“không kiên nhẫn và yêu thích học tiếng Anh”, đi cùng với việc không tạo ra
môi trường học và dùng tiếng Anh thường xuyên cho học sinh.
Điều này không chỉ ảnh
hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp, vì theo chia sẻ của một Hiệu trưởng trường
đại học, các sinh viên vào đại học của ông (hơn 10.000 sinh viên) đều có
tiếng Anh “gần như bằng không, rõ ràng dạy tiếng Anh ở phổ thông không đạt”,
và trường phải đào tạo từ đầu, với áp lực phải đạt được tiêu chuẩn đầu ra mà
Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, trong khi thời gian không đủ, giáo viên
không đủ, học sinh cũng không dành thời gian đủ để tự học [8]…
Vậy, với thực trạng của dạy và học tiếng
Anh ở phổ thông và đại học như trên, việc chúng ta xếp hạng 7 trong Châu Á về năng lực tiếng
Anh có còn nhiều ý nghĩa nữa hay không?
Và câu chuyện tiếng Anh
và xếp hạng tiếng Anh này để làm gì, khi đề án 9.400 tỷ cho chương trình
ngoại ngữ quốc gia 2020 đã được báo cáo với Quốc hội là “thất bại” bởi ‘những
mục tiêu đặt ra quá cao so với thực tế” [9].
Xếp hạng Top đại học quốc tế
Trong những năm 2008,
chúng ta đã có một chính sách rất đúng về việc phải hội nhập với quốc tế về
giáo dục, đặc biệt cho giáo dục đại học để tạo tiền đề cho kinh tế và đất
nước hội nhập.
Việc lựa chọn quốc tế hóa
đại học bằng các mô hình đại học đẳng cấp (world-class) với vốn vay chủ yếu
từ ODA, World Bank (gần 570 triệu đô la Mỹ) cho 3 đại học: Việt – Đức, Việt –
Pháp, và gần đây, Việt – Nhật, hiện đang cần được đánh giá lại về tính hiệu
quả trong việc hỗ trợ Việt Nam tăng thứ hạng trong các bảng xếp hạng đại học
toàn cầu.
Có nhiều lý do để chúng
ta muốn theo đuổi thứ hạng toàn cầu, ví dụ, nâng cao vị thế học thuật của
quốc gia, thúc đẩy năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế, mở rộng hợp tác
dạy và nghiên cứu với các đối tác nước ngoài, tăng cường thu hút học sinh và
nghiên cứu quốc tế đến với Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù chưa có bất kỳ đánh giá
chính thức nào về các mô hình đại học toàn cầu và
việc tham gia vào các xếp hạng đại học toàn cầu, thông tin gần đây nhất được
cập nhật về việc các đại học hàng đầu Việt Nam “bị tụt hạng” [10] trong bảng xếp hạng các
đại học ở khu vực châu Á năm 2016.
Điều này đặt ra một câu
hỏi rất nên hỏi là vậy, sau hơn 8 năm chính sách theo đuổi xếp hạng đại học
toàn cầu, toàn khu vực hay gần đây hơn có đề xuất về xếp hạng đại học toàn
Việt Nam [11], nó có ý nghĩa thực tiễn như thế nào trong việc nâng cao năng
lực dạy, học và nghiên cứu ở các đại học của Việt Nam?
Có thể tôi có tư duy sai,
nhưng không chỉ mình tôi, mà có nhiều hơn 20 nhà nghiên cứu trên thế giới đã
đánh giá lại về 15 năm lịch sử của xếp hạng đại học [12].
Giáo sư Phillip Altbach
và những đồng nghiệp của mình, trong nghiên cứu gần đây, đã chỉ ra rằng, “xếp
hạng đại học đang có những thách thức” [13], khi có những quan điểm cho rằng
phương pháp để các tổ chức đánh giá và xếp hạng đại học đã quá tập trung vào nghiên
cứu và công bố quốc tế.
Theo đề xuất của ông, những đại học cấp
trung và ở những nước đang phát triển, “hãy tập trung vào những điều gì là
thiết thực nhất với các bạn, nhằm có thể phát triển ổn định và tạo ra công ăn
việc làm cho những học sinh của mình, thay vì chạy theo những tiêu chí mà do
người khác “chỉ ra” cho các bạn” [14].
Từ ba ví dụ của xếp hạng
trên đây, liệu chúng ta có suy nghĩ gì về cách chúng ta đang vận hành nền
giáo dục?
Liệu đã bao giờ, đã có ai
tư duy về việc, thực ra, cuối cùng, điều gì là thực sự hữu ích cho giáo dục
của Việt Nam, cho người học và cho người dạy, nếu chúng ta không bị các bảng
xếp hạng “định hướng”?
Nếu có ai quan tâm đến
xếp hạng đại học, xin hãy tìm đọc cuốn “Xếp hạng toàn cầu và vấn đề Địa chính
trị của giáo dục đại học: Hiểu về những ảnh hưởng và tác động của xếp hạng
trong giáo dục đại học, chính sách và xã hội” của GS. Ellen Hazenkorn và nhóm
tác giả mới xuất bản tháng 10 năm 2016.
Tài liệu tham khảo:
[1]http://laodong.com.vn/giao-duc/bang-xep-hang-pisa-hoc-sinh-viet-nam-dung-tren-anh-duc-my-617949.bld
[2]http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/dau-tu-42-trieu-bang-anh-nghien-cuu-cai-thien-he-thong-giao-duc-viet-nam-20160818224928438.htm
[3]http://www.slideshare.net/OECDEDU/preparing-students-for-the-4th-industrial-revolution-implications-for-science-education
[4]https://www.youtube.com/watch?v=1H_M3bVsiX0&list=PLsVk4d_f8-MPCwZfD-HKndwaYtUT1UL6X&index=10
[5]http://ncee.org/2016/04/international-spotlight-comparative-education-research-and-policy-analysis-at-aera-2016/
[6]http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/hoc-tieng-anh/viet-nam-xep-trung-binh-ve-nang-luc-tieng-anh-3499236.html
[7]http://news.zing.vn/ly-do-90-thi-sinh-co-diem-tieng-anh-duoi-trung-binh-post668977.html
[8] “Sinh viên không chuyên ngữ thì phải có trình
độ B1. Chúng tôi có 10.000 sinh viên, khi vào trường trình độ ngoại ngữ của
các em bằng 0, như vậy rõ ràng ở bậc học phổ thông dạy không hiệu quả”
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Hieu-truong-neu-dich-danh-ba-khuyet-diem-dao-tao-dai-hoc-cua-Bo-Giao-duc-post173520.gd
[9]http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Bo-truong-Giao-duc-thua-nhan-De-an-Ngoai-ngu-2020-that-bai-post172498.gd
[10]http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Bang-xep-hang-10-truong-Dai-hoc-hang-dau-cua-Viet-Nam-nhieu-truong-tut-hang-post169843.gd
[11]http://giaoducthoidai.vn/giao-duc/xay-dung-ke-hoach-tong-the-master-plan-cho-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-2930627-l.html
[12] Book 2016. Global Rankings and The Geopolitics of Higher
Education: Understanding the influence and impact of rankings on higher
education, Policy and Society. NXB. Routledge. Editors: Ellen Hazelkorn.https://www.routledge.com/Global-Rankings-and-the-Geopolitics-of-Higher-Education-Understanding/Hazelkorn/p/book/9781138828117
[13]https://napoleon.bc.edu/ojs/index.php/ihe/article/viewFile/7878/7029
[14]http://thanhnien.vn/giao-duc/tai-sao-hau-het-cac-dai-hoc-nen-tu-bo-tro-choi-xep-hang-782223.html
(Theo
Giáo dục VN) Nguyễn
Thị Lan Hương
|
Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét