Thứ Ba, 7 tháng 3, 2017

 Việt Nam và các bảng xếp hạng quốc tế

Cập nhật lúc 14:41   

Liệu đã bao giờ, đã có ai tư duy về việc cuối cùng điều gì là thực sự hữu ích cho giáo dục của Việt Nam nếu chúng ta không bị các bảng xếp hạng “định hướng”?

LTS: Trong thực tế, Việt Nam được đánh giá khá cao trong một số bảng xếp hạng quốc tế như kỳ thi PISA về năng lực Toán – Đọc hiểu và Khoa học.
Tuy nhiên, Việt Nam lại thiếu vắng nhiều nhà khoa học, nhà sáng chế...
Nghiên cứu sinh về giáo dục Hoa Kỳ - Nguyễn Thị Lan Hương cho rằng cần xem xét lại ý nghĩa của các bảng xếp hạng quốc tế hiện nay.
Tác giả Lan Hương cũng đặt câu hỏi về điều gì là thực sự hữu ích cho giáo dục của Việt Nam nếu chúng ta không bị các bảng xếp hạng “định hướng”? 
Tòa soạn trân trọng gửi cùng độc giả!
Trong các bản tin về Việt Nam và quốc tế hiện nay, các thông tin về Việt Nam và thứ hạng của Việt Nam trên nhiều khía cạnh, kinh tế, xã hội, chỉ số hạnh phúc, chỉ số môi trường và đặc biệt là xếp hạng giáo dục, được đưa tin và thu hút sự quan tâm cũng như bình luận của rất nhiều người trong xã hội.
 
Các bảng xếp hạng có thực sự còn ý nghĩa? Ảnh: ventriloquistcentralblog.com

Trong bài viết này, tôi muốn chia sẻ một số các thông tin xếp hạng cụ thể, cách đánh giá xếp hạng và những bình luận đi kèm, mong những bạn đọc như tôi và nhiều người khác, có được những góc nhìn, những cách đánh giá và thẩm định thông tin.
Đồng thời, giúp cho chúng ta hiểu được là xếp hạng, dù ở Việt Nam hay khu vực và quốc tế, mọi vấn đề cũng chỉ là thông tin tham khảo. 
Chúng ta cần sống trung thực với những câu chuyện của bản thân và hãy tìm được giải pháp hữu ích cho chính chúng ta, dựa trên nghiên cứu khoa học và kinh nghiệm đã có từ trong quá khứ hay từ những bạn bè xung quanh.
Thứ hạng trong kỳ thi PISA
Trong hai lần Việt Nam tham gia đánh giá năng lực học sinh toàn cầu mà Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) tổ chức (2012, 2015) dành cho lứa tuổi 15 (lớp 8), cho các môn Toán – Đọc hiểu – Khoa học, học sinh Việt Nam luôn đứng thứ hạng cao (xếp hạng 8 về năng lực Khoa học, 22 về Toán và 32 về Đọc hiểu – Xếp hạng 2015) [1], thậm chí vượt xa học sinh các nước phát triển với đầu tư rất lớn cho giáo dục. 
Điều này đã gây ngạc nhiên cho tất cả các thành viên tham gia đánh giá, và thậm chí, tổ chức RISE được thành lập và cấp ngân sách 4.2 triệu Euro [2] để nghiên cứu tìm hiểu những lý do mà những nước như Việt Nam đã đạt được trong nền giáo dục khi mà GDP trên đầu người còn khá thấp.
Theo đó, chúng ta rất tự hào vì học sinh chúng ta, khi đem chuông so với xứ người, không làm hổ danh đất nước.  
Tuy nhiên, cũng như OECD và nhiều nhà nghiên cứu giáo dục quốc tế khác, những câu hỏi tiếp sau kết quả PISA là, tại sao học sinh Việt Nam học Toán và Khoa học tốt, mà lại ít người tiếp tục học khoa học? 
Tại sao nền tảng khoa học kỹ thuật, khoa học cơ bản của Việt Nam lại thiếu vắng nhiều nhà nghiên cứu đến vậy? 
Và nếu xét theo chỉ số sáng tạo thông qua bằng sáng chế được cấp, tại sao chỉ số Việt Nam lại nằm ở phần gần cuối của bảng xếp hạng?
Vâng, tại sao lại có những nghịch lý này?
Nếu để lý giải vấn đề này dựa trên nghiên cứu khoa học, có lẽ sẽ phải chờ 6 năm nữa, khi chương trình của RISE kết thúc và họ đưa ra được một số đánh giá từ thực tế khảo sát giáo dục của Việt Nam khi so sánh với các nước khác.  
Tuy nhiên, cuộc trao đổi gần đây mà OECD thực hiện với hơn 180 nhà giáo dục đến từ 100 nước [3] bàn về những chuẩn bị cho sự thành công của học sinh trong thời kỳ công nghệ 4.0 sắp tới cho thấy: Mặc dù Việt Nam có được xếp hạng cao trong đánh giá của OECD do chúng ta “luyện” học sinh học cách giải Toán, giải Khoa học, giống như Singapore, nhưng có lẽ chưa chú trọng vào phần “đam mê khoa học, đam mê sáng tạo” hay “môi trường khuyến khích phát triển khoa học”.
Và cơ bản nhất là chúng ta thiếu vắng kỹ năng “học để suy nghĩ trung thực, độc lập”, kỹ năng nền tảng cho mọi nghiên cứu khoa học. 
Việc chúng ta hiện nay đang đi theo cách đánh giá học sinh nặng về điểm số của thi cử, loại hình đánh giá dựa vào thi trắc nghiệm cũng là một số minh chứng cho việc tại sao chúng ta có học sinh thi giỏi, nhưng không có nhà sáng chế giỏi.  
Bộ trưởng của Singapore, trong một bài chia sẻ với một trong những nhà bình luận xuất sắc của New York Times (GS. Fareed Zakaria) đã thừa nhận: “Chúng tôi đã dạy cho học sinh biết làm bài thi tốt, nhưng lại không biết dạy cách suy nghĩ như thế nào sẽ là tốt” [4].  

Đây chính là điều cản trở cho tư duy sáng tạo, tư duy phản biện và suy nghĩ độc lập của mà học sinh trong thời đại kinh tế tri thức này cần có, theo OECD và nghiên cứu của NCEE [5]. 
Xếp hạng tiếng Anh
Gần đây, chúng ta có đọc được một bản tin thông báo rằng Việt Nam đứng thứ 7 trong các nước Châu Á về khả năng tiếng Anh và đứng thứ 31/72 các quốc gia mà khảo sát được thực hiện [6]. 
Đây là một tin mừng cho chúng ta, vì như vậy, chúng ta đang tiệm cận dần với trình độ tiếng Anh của thế giới.
Tuy nhiên, mặc dù chúng ta có được xếp hạng như vậy về tiếng Anh, một thực tế khác cũng cần được nhắc đến: trên 90% học sinh phổ thông của chúng ta không đạt được điểm trung bình về tiếng Anh khi thi tốt nghiệp năm 2016 [7]. 
Theo GS. Nguyễn Quốc Hùng, người có nhiều năm dạy tiếng Anh cho biết, điều này xuất phát từ “phương pháp dạy và học tiếng Anh của chúng ta chưa đúng”.
Và cũng do bởi chúng ta “không kiên nhẫn và yêu thích học tiếng Anh”, đi cùng với việc không tạo ra môi trường học và dùng tiếng Anh thường xuyên cho học sinh.
Điều này không chỉ ảnh hưởng đến kết quả thi tốt nghiệp, vì theo chia sẻ của một Hiệu trưởng trường đại học, các sinh viên vào đại học của ông (hơn 10.000 sinh viên) đều có tiếng Anh “gần như bằng không, rõ ràng dạy tiếng Anh ở phổ thông không đạt”, và trường phải đào tạo từ đầu, với áp lực phải đạt được tiêu chuẩn đầu ra mà Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định, trong khi thời gian không đủ, giáo viên không đủ, học sinh cũng không dành thời gian đủ để tự học [8]…
Vậy, với thực trạng của dạy và học tiếng Anh ở phổ thông và đại học như trên, việc chúng ta xếp hạng 7 trong Châu Á về năng lực tiếng Anh có còn nhiều ý nghĩa nữa hay không? 
Và câu chuyện tiếng Anh và xếp hạng tiếng Anh này để làm gì, khi đề án 9.400 tỷ cho chương trình ngoại ngữ quốc gia 2020 đã được báo cáo với Quốc hội là “thất bại” bởi ‘những mục tiêu đặt ra quá cao so với thực tế” [9].
Xếp hạng Top đại học quốc tế
Trong những năm 2008, chúng ta đã có một chính sách rất đúng về việc phải hội nhập với quốc tế về giáo dục, đặc biệt cho giáo dục đại học để tạo tiền đề cho kinh tế và đất nước hội nhập. 
Việc lựa chọn quốc tế hóa đại học bằng các mô hình đại học đẳng cấp (world-class) với vốn vay chủ yếu từ ODA, World Bank (gần 570 triệu đô la Mỹ) cho 3 đại học: Việt – Đức, Việt – Pháp, và gần đây, Việt – Nhật, hiện đang cần được đánh giá lại về tính hiệu quả trong việc hỗ trợ Việt Nam tăng thứ hạng trong các bảng xếp hạng đại học toàn cầu. 
Có nhiều lý do để chúng ta muốn theo đuổi thứ hạng toàn cầu, ví dụ, nâng cao vị thế học thuật của quốc gia, thúc đẩy năng lực nghiên cứu và công bố quốc tế, mở rộng hợp tác dạy và nghiên cứu với các đối tác nước ngoài, tăng cường thu hút học sinh và nghiên cứu quốc tế đến với Việt Nam.
Tuy nhiên, mặc dù chưa có bất kỳ đánh giá chính thức nào về các mô hình đại học toàn cầu và việc tham gia vào các xếp hạng đại học toàn cầu, thông tin gần đây nhất được cập nhật về việc các đại học hàng đầu Việt Nam “bị tụt hạng” [10] trong bảng xếp hạng các đại học ở khu vực châu Á năm 2016.
Điều này đặt ra một câu hỏi rất nên hỏi là vậy, sau hơn 8 năm chính sách theo đuổi xếp hạng đại học toàn cầu, toàn khu vực hay gần đây hơn có đề xuất về xếp hạng đại học toàn Việt Nam [11], nó có ý nghĩa thực tiễn như thế nào trong việc nâng cao năng lực dạy, học và nghiên cứu ở các đại học của Việt Nam? 
Có thể tôi có tư duy sai, nhưng không chỉ mình tôi, mà có nhiều hơn 20 nhà nghiên cứu trên thế giới đã đánh giá lại về 15 năm lịch sử của xếp hạng đại học [12]. 
Giáo sư Phillip Altbach và những đồng nghiệp của mình, trong nghiên cứu gần đây, đã chỉ ra rằng, “xếp hạng đại học đang có những thách thức” [13], khi có những quan điểm cho rằng phương pháp để các tổ chức đánh giá và xếp hạng đại học đã quá tập trung vào nghiên cứu và công bố quốc tế.  
Theo đề xuất của ông, những đại học cấp trung và ở những nước đang phát triển, “hãy tập trung vào những điều gì là thiết thực nhất với các bạn, nhằm có thể phát triển ổn định và tạo ra công ăn việc làm cho những học sinh của mình, thay vì chạy theo những tiêu chí mà do người khác “chỉ ra” cho các bạn” [14].
Từ ba ví dụ của xếp hạng trên đây, liệu chúng ta có suy nghĩ gì về cách chúng ta đang vận hành nền giáo dục?
Liệu đã bao giờ, đã có ai tư duy về việc, thực ra, cuối cùng, điều gì là thực sự hữu ích cho giáo dục của Việt Nam, cho người học và cho người dạy, nếu chúng ta không bị các bảng xếp hạng “định hướng”? 
Nếu có ai quan tâm đến xếp hạng đại học, xin hãy tìm đọc cuốn “Xếp hạng toàn cầu và vấn đề Địa chính trị của giáo dục đại học: Hiểu về những ảnh hưởng và tác động của xếp hạng trong giáo dục đại học, chính sách và xã hội” của GS. Ellen Hazenkorn và nhóm tác giả mới xuất bản tháng 10 năm 2016.
Tài liệu tham khảo:
[1]http://laodong.com.vn/giao-duc/bang-xep-hang-pisa-hoc-sinh-viet-nam-dung-tren-anh-duc-my-617949.bld
[2]http://dantri.com.vn/giao-duc-khuyen-hoc/dau-tu-42-trieu-bang-anh-nghien-cuu-cai-thien-he-thong-giao-duc-viet-nam-20160818224928438.htm
[3]http://www.slideshare.net/OECDEDU/preparing-students-for-the-4th-industrial-revolution-implications-for-science-education
[4]https://www.youtube.com/watch?v=1H_M3bVsiX0&list=PLsVk4d_f8-MPCwZfD-HKndwaYtUT1UL6X&index=10
[5]http://ncee.org/2016/04/international-spotlight-comparative-education-research-and-policy-analysis-at-aera-2016/
[6]http://vnexpress.net/tin-tuc/giao-duc/hoc-tieng-anh/viet-nam-xep-trung-binh-ve-nang-luc-tieng-anh-3499236.html
[7]http://news.zing.vn/ly-do-90-thi-sinh-co-diem-tieng-anh-duoi-trung-binh-post668977.html
[8] “Sinh viên không chuyên ngữ thì phải có trình độ B1. Chúng tôi có 10.000 sinh viên, khi vào trường trình độ ngoại ngữ của các em bằng 0, như vậy rõ ràng ở bậc học phổ thông dạy không hiệu quả”
http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Hieu-truong-neu-dich-danh-ba-khuyet-diem-dao-tao-dai-hoc-cua-Bo-Giao-duc-post173520.gd
[9]http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Bo-truong-Giao-duc-thua-nhan-De-an-Ngoai-ngu-2020-that-bai-post172498.gd
[10]http://giaoduc.net.vn/Giao-duc-24h/Bang-xep-hang-10-truong-Dai-hoc-hang-dau-cua-Viet-Nam-nhieu-truong-tut-hang-post169843.gd
[11]http://giaoducthoidai.vn/giao-duc/xay-dung-ke-hoach-tong-the-master-plan-cho-giao-duc-dai-hoc-viet-nam-2930627-l.html
[12] Book 2016. Global Rankings and The Geopolitics of Higher Education: Understanding  the influence and impact of rankings on higher education, Policy and Society. NXB. Routledge. Editors: Ellen Hazelkorn.https://www.routledge.com/Global-Rankings-and-the-Geopolitics-of-Higher-Education-Understanding/Hazelkorn/p/book/9781138828117
[13]https://napoleon.bc.edu/ojs/index.php/ihe/article/viewFile/7878/7029
[14]http://thanhnien.vn/giao-duc/tai-sao-hau-het-cac-dai-hoc-nen-tu-bo-tro-choi-xep-hang-782223.html
(Theo Giáo dục VN) Nguyễn Thị Lan Hương

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét