Khoảnh
khắc lính Trung Quốc xả đạn vào chiến sỹ vây quanh lá cờ trên đảo Gạc Ma
Cập nhật lúc 14:20
Những người lính tham gia
trận hải chiến Gạc Ma 29 năm về trước kể lại, họ đã phải dùng các hộp đạn
ghép làm hòm rồi khâm liệm và án táng thiếu úy Trần Văn Phương ngay trên đảo
Sinh Tồn.
Dùng hộp đạn khâm liệm người lính hy sinh
Chúng tôi tìm về vùng đất
Quảng Trị anh hùng vào những ngày tháng 3 lịch sử. Cũng gần vào dịp này của
29 năm về trước (14/3/1988), Trung Quốc đã nổ súng sát hại 64 chiến sĩ của lực lượng Hải quân Việt
Nam.
Gạc Ma
tháng 3/1988 đối với hai cựu binh là anh Trần Quang Dũng (SN 1966) và Trần
Xuân Bình (SN 1970), cùng trú tại huyện Gio Linh, tỉnh Quảng Trị là những
dòng kí ức chẳng thể nào quên.
Trò
chuyện với chúng tôi, cựu binh Trần Quang Dũng phóng đôi mắt nhìn về phía
biển và bồi hồi nhớ lại: "Ngày 12/3/1988, anh em chúng tôi lên tàu HQ
604 đi ra làm nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền Trường Sa. Chiều 13/3/1988 tàu của
tôi cùng tàu HQ.605 và HQ.606 đến Gạc Ma.
Khoảng 5h ngày 14/3, tôi
và anh Bình là hai người dân biển Quảng Trị, bơi giỏi nên được giao
nhiệm vụ vào đảo Gạc Ma cắm cờ. Khi nhận nhiệm vụ, chúng tôi mang
theo xà beng cùng cây dương bơi lên đảo để cắm cờ và cắm cọc buộc dây từ tàu
vào đảo.
Sau đó,
thiếu úy Trần Văn Phương (quê ở Quảng Bình) cùng một số đồng đội nữa lần lượt
vào và vây quanh bảo vệ lá cờ Tổ quốc vừa được cắm lên Gạc Ma.
Không
lâu sau đó, từ phía xa tàu Trung Quốc xuất hiện. Bọn chúng chia nhau lên ca
nô rồi lái vào đảo. Hai bên đều nói Gạc Ma là chủ quyền của mình và buộc phía
bên kia rời khỏi đảo.
Đã 29 năm trôi qua
nhưng anh Dũng và anh Bình chẳng thể nào quên được những câu nói cuối cùng của
đồng đội trước lúc hy sinh tại Gạc Ma ngày 14/3/1988. (Ảnh: Trần Anh)
Sau hồi
tranh luận, bất ngờ lính Trung Quốc tiến đến dùng lưỡi lê đâm vào anh Nguyễn
Duy Lân rồi chúng bắt đầu nổ súng. Ở loạt đạn đầu tiên, thiếu úy Phương đã
gục xuống và hi sinh bên cạnh lá cờ Tổ quốc”.
Khi
tiếng súng ngưng, anh Dũng cùng đồng chí của mình là anh Trần Xuân Bình cố
gắng đưa thiếu úy Trần Văn Phương (lúc này đã hi sinh) cùng hơn 30 người lên
chiếc xuồng cao su rồi lênh đênh trên biển.
Sau khoảng thời gian lênh
đênh trên biển, những người lính Gạc Ma may mắn gặp tàu tiếp
nước của quân ta và đưa về đảo Sinh Tồn. Khi ấy mọi người mới biết là mình
thoát chết.
Khẽ lau
giọt lệ còn đang lăn dài trên gò má, anh Trần Xuân Bình cho biết: "Tôi
cùng anh Dũng đưa được thiếu úy Trần Văn Phương vào đảo Sinh Tồn. Vào đến
nới, chúng tôi dùng các hộp đạn ghép làm hòm rồi khâm liệm và án táng anh ấy
ngay trên đảo”.
Đến giờ
anh Trần Quang Dũng vẫn còn nhớ như in câu nói của liệt sĩ, thiếu úy Trần Văn
Phương trước lúc hi sinh: “Thà hi sinh chứ không chịu mất đảo. Hãy để máu của
mình tô thắm lá cờ truyền thống của Quân chủng Hải quân Việt Nam anh hùng”.
Anh Trần Thiên
Phụng chỉ vào vết sẹo do trúng đạn Trung Quốc bắn trong trận hải chiến Gạc Ma
năm 1988. (Ảnh: Trần Anh)
Thoát
chết trong trận hải chiến Gạc Ma, anh Dũng và anh Bình tiếp tục tham gia làm
nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc. Mãi đến năm 1991, hai anh mới ra quân và
trở về quê hương làm lụng xây dựng cuộc sống gia đình.
Vì nặng
lòng với vùng biển đảo Tổ quốc mà cựu binh Trần Xuân Bình đã lấy tên các đảo
đặt tên cho 3 con mình là Trần Xuân Trường, Trần Xuân Sa (bắt nguồn từ tên
đảo Trường Sa) và Trần Xuân Sinh (bắt nguồn từ tên đảo Sinh Tồn).
Sau hồi tranh luận, bất
ngờ lính Trung Quốc tiến đến dùng lưỡi lê đâm vào anh Nguyễn Duy Lân rồi
chúng bắt đầu nổ súng. Ở loạt đạn đầu tiên, thiếu úy Phương đã gục xuống và
hi sinh bên cạnh lá cờ Tổ quốc.
Cựu binh Trần Quang Dũng
Ký ức “Vòng tròn bất tử”
Quảng
Trị có 6 chiến sĩ thuộc Quân chủng Hải quân Việt Nam tham gia cuộc hải
chiến Gạc Ma năm 1988. Trong 6 chiến sĩ thì có 2 người mãi mãi nằm lại nơi
vùng biển đảo linh thiêng của Tổ quốc và 1 người bị Trung Quốc cầm tù
3 năm mới được trở về quê hương.
Tiếp
chúng tôi, 3 trong 4 cựu cựu binh may mắn thoát chết tại trận hải chiến Gạc
Ma năm xưa là anh Trần Thiện Phụng (SN 1962, trú thành phố Đông Hà), anh Trần
Quang Dũng (SN 1966, trú huyện Gio Linh), Trần Xuân Bình (SN 1970, trú huyện
Gio Linh) lại sụt sùi nước mắt khi kể lại những ký ức về đồng đội.
Ngày 11/3/1988, các cựu
binh được lệnh ra đảo Gạc Ma cùng với các chiến sĩ khác để xây dựng
đảo. Họ cùng đi trên tàu HQ.604 và đến Gạc Ma vào chiều 13/3/1988.
Cựu
binh Trần Thiện Phụng nhớ lại: “Khi vừa cập bến thì thấy một số tàu Trung
Quốc cũng đang ở gần đảo Gạc Ma nhưng chưa có động thái gây hấn nào. Đêm
13/3, Trung tá Trần Đức Thông – Phó Lữ đoàn trưởng Lữ đoàn 146 nói với mọi
người: "Các đồng chí yên tâm. Tôi sẽ điện vào Bộ Tư lệnh vùng 4 để xin
chỉ thị cho tàu ra viện trợ."
Đêm hôm
ấy, tâm lý anh em rất thoải mái, mọi người cùng nhau hát hò.
Thời gian bị Trung Quốc cầm tù, đồng đội tưởng anh Phụng đã hi sinh
nên làm giấy báo tử gửi về gia đình anh ở Quảng Trị. (Ảnh: Nguyễn Vương)
“Tui
còn nhớ mãi câu nói anh Đông nói với tôi đêm hôm ấy: "Mai mi chết tau về
báo với vợ con mi, còn nếu tau chết mi về báo với gia đình tau. Cuối cùng anh
Đông hy sinh còn tui thì bị quân Trung Quốc bắt nên không ai báo được cho
ai”, cựu binh Trần Thiên Phụng nhớ lại.
Còn
cựu binh Trần Quang Dũng thì mãi không thể nào quên những câu nói của thiếu
úy Nguyễn Văn Phương (quê Quảng Bình) vào đêm 13/3/1988: “Chắc đêm đó anh
Phương có linh tính về điều chẳng lành đến với mình nên đã nhắn tôi rằng:
"E tau không về được! Nếu tụi bây về được thì bắt xe ra Đồng Hới động
viên vợ tau với. Vợ tau là giáo viên và còn có con nhỏ của tau nữa"”.
Đúng
như linh tính của thiếu úy Trần Văn Phương, sáng hôm sau (14/3/1988) cựu binh
Trần Quang Dũng và Trần Xuân Bình được giao nhiệm vụ vào đảo Gạc
Ma cắm cờ. Sau đó, thiếu úy Trần Văn Phương cùng một số đồng chí nữa lần
lượt vào bảo vệ lá cờ Tổ quốc. Thế nhưng, đúng lúc này, tàu Trung Quốc
ập tới và bắt đầu xả súng về phía quân ta.
Sau
loạt đạn xối xả đầu tiên của Trung Quốc, thiếu úy Trần Văn Phương, các anh
Tống Sĩ Bái và Hoàng Ánh Đông (cùng quê Đông Hà, Quảng Trị) đã hy sinh bên lá
cờ Tổ quốc.
Anh
Trần Xuân Bình sụt sùi nói: “Trước lúc hy sinh và đang đứng tại vòng tròn bảo
vệ lá cờ, đồng chí Tống Sĩ Bái còn nói với tôi: "Ước gì bây giờ hoàn
thành xong nghĩa vụ để tau được về với mẹ". Lúc sinh tử đó trong đầu ai
cũng mong muốn được về đoàn tụ với gia đình. Ấy vậy mà vừa nói ra cái ước
nguyện ấy thì đồng chí Bái cũng hy sinh”.
“Nhìn
đồng đội ngã xuống mà đau đớn lòng. Tiếc rằng trong tay không có súng để bắn
lại chúng”, anh Trần Thiên Phụng nói trong cay đắng.
Đã nhiều năm qua, mẹ Hằng coi chai nước
biển như chứa máu và linh hồn của con trai mình trong đó. (Ảnh: Trần Anh)
Sau
ngày thảm sát đẫm máu tại Gạc Ma, anh Dũng và anh Bình may mắn ôm được khúc
gỗ trôi dạt trên biển và được cứu về đảo Sinh Tồn. Sau khi được điều tri tại
bệnh viện, các anh tiếp tục tham gia vào nhiệm vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Mãi đến
năm 1991 các anh mới ra quân, trở về quê hương làm lụng, xây dựng cuộc sống
gia đình.
Riêng
anh Trần Thiện Phụng, trong trận hải chiến Gạc Ma bị dính đạn và bị thương ở
cánh tay trái, tay còn lại thì cố bám trên thanh gỗ và trôi dạt trên biển.
Sau đó
anh được quân Trung Quốc vớt lên tàu và bị bắt làm tù binh trong suốt 3 năm
mới được trao trả về nước đoàn tụ với gia đình. Hoàn cảnh và những năm tháng
trong tù của Phụng cũng đã được chúng tôi thuật lại trong bài viết "Nhật
ký người lính Gạc Ma và câu chuyện trong nhà tù Trung Quốc".
Mỗi lần nhớ lại những hồi ức về người con đã hy sinh tại Gạc Ma
năm 1988, mẹ Hằng lại ôm mặt khóc. (Ảnh: Trần Anh)
Khát vọng bám biển trên
chiếc “thuyền bộ đội”
Trở về
từ Gạc Ma, hai cựu binh Trần Quang Dũng và Trần Xuân Bình lại quay về với
nghề đánh bắt hải sản, vừa là để mưu sinh nhưng cũng là để nuôi khát vọng
vươn khơi, bám biển trên vùng biển đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Sau
nhiều năm đi biển tích cóp, năm 2010 cựu binh Trần Quang Dũng đã đóng được
cho mình chiếc tàu 52 CV để ra khơi bám biển. Anh Dũng tự gọi chiếc tàu
này của mình là “thuyền bộ đội”.
Theo
lời bộc bạch của anh, tên gọi đó xuất phát từ việc những người đi trên tàu
đều là lính Hải Quân. Ngoài anh Dũng và anh Bình thì còn có các Nguyễn Công
Vinh, Hoàng Phát và Võ Nam (đều là lính Hải quân Việt Nam tham gia xây dựng
đảo Cô Lin, Sơn Chà).
Thoát chết và trở về từ Gạc Ma nhưng ý chí đóng tàu để vươn khơi, bám
biển góp phần bảo vệ biển đảo quê hương luôn chảy trong huyết quản của cựu
binh Dũng. (Ảnh: Trần Anh)
“Tôi là
người lính Hải quân nên những năm tháng lênh đênh trên biển in sâu trong máu
rồi nên không thể dứt ra được. Hơn nữa mỗi lần mình vươn khơi bám biển vừa
thỏa được nỗi lòng ra biển vừa góp phần bảo vệ biển đảo quê hương”, anh Dũng
tâm sự.
Những
người cựu lính Gạc Ma này cũng tổ chức một ngày giỗ chung cho các đồng đội là
ngày 26/2 Âm lịch. Hằng năm, khi đến ngày này những cựu binh trên chiếc
“thuyền bộ đội” lại chuẩn bị vòng hoa, làm mâm cơm lên thuyền ra cửa lạch và
hướng về phía đảo xa bái vọng.
Ngày
hôm đó cũng được những cựu binh chọn là ngày xuất hành đầu năm của chiếc
“thuyền bộ đội”.
“Bao
nhiêu ngày đi biển của tôi là bấy nhiêu kí ức lại ùa về. Giữa mênh mông sóng
nước tôi lại nhớ kí ức cùng đồng đội ngày còn trên tàu ra đảo Gạc Ma. Mỗi lần
lênh đênh trên biển tôi lại thắp nén hương, thả vài bông hoa xuống dưới biển
cầu mong cho linh hồn các đồng đội được siêu thoát”, anh Trần Xuân Bình sụt
sùi.
Những cựu lính
của Quân chủng Hải quân Việt Nam anh hùng năm xưa lại tiếp tục cùng nhau vươn
khơi, bám biến. (Ảnh: Trần Anh)
Anh
Nguyễn Công Vinh (Cựu binh Trung đoàn 83, Quân chủng Hải quân Việt Nam –
người có ra và tham gia xây dựng đảo Cô Lin vào tháng 3/1988) chia sẻ: “Đi
trên thuyền của anh Dũng chúng tôi xem nhau như anh em. Cùng nhau chia ngọt
sẻ bùi. Có lúc đánh bắt được nhiều cá có lúc không, nhưng đã là tình đồng chí
thì không tính toán thiệt hơn.
Tôi là
lính Hải quân nên dù không còn trong quân ngũ nhưng trái tim luôn hướng về
biển đảo. Tôi bám biển cũng chỉ muốn góp phần khẳng định chủ quyền biển đảo
nước ta”.
Được
biết, sau sự cố môi trường biển xảy ra ở 4 tỉnh miền Trung đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến cuộc sống cũng như công việc bám biển, vươn khơi của những cựu
binh trên.
Trong
tâm khảm cựu binh Trần Xuân Dũng giờ đây luôn mong mỏi sớm đóng được chiếc
tàu trên 400 CV để có thể ra được những vùng biển xa.
“Vừa
qua có nghị định 67 cho ngư dân vay vốn đóng tàu, mong rằng tôi có thể vay
vốn để đóng chiếc tàu trên 400 CV. Có thuyền lớn vừa tạo công việc cho những
cựu binh vừa có thể bám biển bảo vệ chủ quyền của Tổ quốc”, cựu binh Dũng
trải lòng.
(Theo VTCnews) Trần
Anh – Nguyễn Vương
|
Thứ Hai, 13 tháng 3, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét