Xóa
trạng thái “kỳ dị”: 63 tỉnh, 63 nền kinh tế
Cập nhật lúc 15:20
Tại Việt Nam,
63 nền kinh tế địa phương và 1 nền kinh tế trung ương giống hệt nhau nhưng
độc lập với nhau tạo nên trạng thái “kỳ dị”.
Trình bày bài
tham luận tại Hội thảo quốc tế “Liên kết vùng trong quá trình tái cơ cấu
kinh tế và chuyển đổi mô hình tăng trưởng ở Việt Nam”, PGS. TS Trần Đình
Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam cho biết, ở Việt Nam, nền kinh tế
quốc gia được cấu thành từ 63 nền kinh tế địa phương và 1 nền kinh tế trung
ương giống hệt nhau nhưng độc lập với nhau.
TS. Thiên cho
hay, kinh tế Việt Nam hiện được tổ chức theo đơn vị tỉnh, trong khi các tỉnh
lại độc lập với nhau về quyền lực điều hành và lợi ích, trên cả hai tuyến
quản lý hành chính và ngân sách.
Vị chuyên gia
này cho rằng, mô hình 64 "nền kinh tế độc lập" đang gây lãng phí
nguồn lực phát triển trên quy mô lớn, phát triển xu hướng đua tranh không
lành mạnh (thậm chí là "cạnh tranh cùng chết", "cạnh tranh
cùng xuống đáy") giữa các tỉnh, thúc đẩy "chủ nghĩa thành tích ảo".
Nền "kinh tế tỉnh ta" và cơ chế “xin –cho”
Về mặt quản lý
nhà nước, hầu như chỉ tồn tại mối liên hệ "dọc" từ trung ương đến
địa phương. Trong cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, mối liên hệ dọc này
tạo thành cốt lõi của cơ chế "xin-cho". Hoạt động kinh tế của các
tỉnh gần như độc lập với nhau, từ góc nhìn nhà nước có thể goi là biệt lập
nhau, TS. Thiên nêu vấn đề.
Theo ông Trần
Đình Thiên, đặc điểm này đã hình thành một trạng thái "kỳ dị" của
nền kinh tế thị trường (đúng hơn là nền kinh tế đang chuyển đổi sang kinh tế
thị trường) ở Việt Nam hiện nay: nền kinh tế quốc gia được cấu thành từ 64
nền kinh tế giống hệt nhau nhưng độc lập với nhau. Các nền kinh tế này có quy
mô nhỏ bé, dân số trung bình 1-2 triệu người với GDP đầu người bình quân năm
2015 chỉ khoảng 2.100 USD. Mặc dù có những nỗ lực phát triển nhưng theo ông
Thiên, những nỗi lực đó là đạt đến tới hạn của thành tích phát triển.
Viện trưởng
Viện Kinh tế Việt Nam nhấn mạnh, đa số các tỉnh đều gặp những giới hạn nghiêm
ngặt của cơ chế và nguồn lực "đóng cửa" nên hầu như không thể bứt
phá. Giới hạn này mang tính nguyên tắc, là đặc điểm cố hữu, tất nhiên của hệ
thống cơ chế "kinh tế tỉnh ta".
TS. Thiên nêu
tình trạng các tỉnh đua nhau làm khu công nghiệp, đua nhau làm cảng biển, đua
nhau thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) bằng cách "hạ giá” địa phương mình,
tìm cách gây khó khăn cho tỉnh bạn (tranh chấp phát triển cảng biển, không
phối hợp kết nối giao thông), "ngăn sông, cấm chợ" (cấm chuyển
quặng ra khỏi tỉnh, tiêu thụ "bia tỉnh ta")...
“Đây là những
hiện tượng khá phổ biến, gây ra những tổn thất to lớn ở cả tầm quốc gia”, TS.
Thiên nhận định.
Ông Trần Đình
Thiên khẳng định, cấu trúc "nền kinh tế tỉnh" chứa đựng những yếu
tố và xu hướng phát triển đi ngược lại nguyên lý cơ bản của kinh tế học -
nguyên lý lợi thế quy mô, nguyên lý phân công - hợp tác. Điều này cũng đi
ngược lại xu hướng phát triển kinh tế hiện đại là thiết lập và mở rộng phạm
vi chuỗi liên kết, mạng sản xuất, cụm công nghiệp.
“Lực cản” liên kết vùng
TS. Thiên cũng
cho rằng, muốn thoát khỏi giới hạn chật hẹp, kém hiệu quả của cơ chế kinh tế
tỉnh, không thể chỉ dừng lại ở việc chỉnh sửa, cải tiến hay "cơi
nới" cơ chế phân quyền, phân cấp kinh tế hiện tại mà phải thay nó bằng
một cơ chế khác đó là thể chế vùng kinh tế.
Phương án triệt
để nhất là cần tích cực chuẩn bị để ra đời càng sớm càng tốt: cả nước lập ra
8-10 vùng hành chính - kinh tế độc lập, mỗi vùng bao gồm một số tỉnh hiện nay
đang là độc lập sẽ chuyển thành một thành phần cấu trúc bộ phần của vùng và
phụ thuộc.
Về mặt quản lý
nhà nước, vùng sẽ đóng vai trò của tỉnh hiện nay - là một cấp quyền lực mang
tính độc lập cao, là cơ quan quản lý hành chính - kinh tế của vùng (thiết chế
độc lập). Như vậy, vùng thay thế vai trò của tỉnh, đồng thời đẩy tỉnh xuống
thành cấp quản lý trực thuộc vùng.
Lợi ích chiến
lược của kinh tế vùng là rõ ràng: xóa bỏ tình trạng manh mún, chia cắt và cát
cứ theo tỉnh hiện nay, quy hoạch phát triển vùng sẽ hiệu quả hơn nhờ tránh
được chồng chéo, lãng phí. Việc thực hiện quy hoạch phát triển vùng sẽ tránh
được các xung đột cục bộ cũng như những phản đối xuất phát từ lợi ích nhóm.
Tuy nhiên,
chuyên gia kinh tế này cũng thừa nhận, việc thay đổi cấu trúc tổ chức hành
chính - nhà nước luôn luôn là điều không dễ dàng, luôn luôn chưa đựng khả
năng gây xung đột lợi ích nhóm một cách gay gắt.
Lực lượng chống
đối phương án này tại các địa phương là rất lớn do việc sáp nhập các tỉnh
thành vùng chắc chắn sẽ gây tổn tại lợi ích của họ, TS. Thiên chia sẻ.
Do vậy, phương
án "quá độ" được đưa ra là thành lập Hội đồng tư vấn phát triển
vùng để tăng cường khả năng phối hợp hoạt động các địa phương trong vùng.
Theo đó, vùng chưa thể là một đơn vị hay một khu vực hành chính, nhưng cũng
không phải là phép cộng đơn thuần của các đơn vị hành chính nhỏ hơn như tỉnh.
Hội đồng này
được lập ra với sự tham gia của các lãnh đạo tỉnh, vị chủ tịch hội đồng nên
là một người có vị thế độc lập với các địa phương, có mối liên hệ trực tiếp
với Trung ương và trong trường hợp các tỉnh không tạo được sự đồng thuận phát
triển thì có thẩm quyền kiến nghị các vấn đề phát triển vùng lên Chính phủ,
Thủ tướng Chính phủ để Chính phủ can thiệp, TS. Thiên gợi ý./.
|
Trần Ngọc/VOV.VN
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét