Cuộc chiến 2/1979: Vì sao khó xảy ra
cuộc chiến Xô-Trung?
Cập nhật lúc 10:53
Nếu quân đội Trung Quốc không
rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên hai mặt trận.
Trung Quốc ngán sức
mạnh quân sự Liên Xô” chúng ta đã hiểu khá rõ về việc trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Trung Quốc tháng 2/1979, sự giúp đỡ chí tình, chí nghĩa trên tất
cả các lĩnh vực: Chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự…, của Liên Xô đối với
Việt Nam là một yếu tố rất quan trọng giúp chúng ta giành thắng lợi vẻ vang.
Tuy nhiên,
trong và sau cuộc chiến tranh này, có những ý kiến (chủ yếu từ
phương Tây) cho rằng, Liên Xô không sẵn sàng đưa quân đội vào tham chiến
bảo vệ đồng minh (Việt Nam) mà chỉ ủng hộ về ngoại giao và tập trung viện trợ
kinh tế, quân sự.
Những luồng ý
kiến này tập trung chỉ trích Hiệp định hợp tác Việt-Xô là không thực chất,
Việt Nam không thể trông cậy vào đồng minh những lúc “hữu sự.
Trên thực tế,
đây là những tuyên truyền có chủ đích, nhằm ly gián mối quan hệ hợp tác hữu
nghị toàn diện giữa Liên Xô và Việt Nam, nhằm mục đích riêng của những người
đưa ra luận điệu đó.
Liên Xô sẵn
sàng can thiệp quân sự
Vào giai đoạn
đó, có một câu hỏi rất lớn được giới học giả quốc tế đặt ra là Liên Xô thực
sự có ý định tấn công Trung Quốc để “cứu” Việt Nam hay không? Nếu không thì
vì sao không? Và nếu có thì đâu là mức “ngưỡng” cuối cùng, mà Liên Xô sẽ
quyết định can thiệp quân sự?
Trong hồi ký
của các cựu quân nhân Liên Xô cho biết, Moscow sẽ can thiệp quân sự khi cần
thiết và khi đó Trung Quốc đã được cảnh báo trước một điều rõ ràng: Nếu quân
đội Trung Quốc không rút khỏi Việt Nam, họ sẽ phải chiến đấu trên
hai mặt trận.
Khi cuộc chiến
tranh biên giới bắt đầu nổ ra, Liên Xô đã trục xuất các nhân viên
Đại sứ quán Trung Quốc. Họ buộc phải trở về Bắc Kinh bằng đường xe lửa liên
vận và trên cung đường này, các nhà ngoại giao Trung Quốc đã được chứng kiến
cảnh hàng đoàn xe tăng Liên Xô đang rầm rập tiến về hướng Đông, từ vùng núi
Ural cho đến vùng biên giới Mông Cổ-Trung Quốc.
Thậm chí, trước
ngày Trung Quốc tuyên bố rút quân, Chủ tịch Fidel Castro đã cảnh báo rằng,
nếu nhà cầm quyền Bắc Kinh không chấm dứt hành động xâm lược, Cuba và Liên Xô
có thể sẽ đưa quân đội đến giúp đỡ Việt Nam.
Đây là minh
chứng cho cam kết của “người anh cả” Liên Xô và đất nước Cuba anh em, quyết
tâm bảo vệ Việt Nam chống quân xâm lược bành trướng.
Không chỉ thế,
giới chuyên gia quân sự nước ngoài và cả Trung Quốc phân tích và nhận
định rằng, có quá nhiều sự lựa chọn hiệu quả đối với Liên Xô trong các
hành động tấn công trên chiều dài 4.500 km đường biên giới Xô - Trung, nơi có
44 sư đoàn đang sẵn sàng tham chiến. Nhưng cũng có thể xuất hiện những kịch bản
khác.
Kịch bản thứ nhất và
cũng là kịch bản xấu nhất: Đây là kịch bản "ngày tận
thế", là đòn tấn công nhằm vào các cơ sở hạt nhân của Trung Quốc ở vùng
hồ muối Lop Nor (hay còn gọi là La Bố Bạc) - nằm giữa sa mạc Taklamakan và sa
mạc Kuruktag, thuộc phía Đông khu tự trị Duy Ngô Nhĩ - Tân Cương.
Mục tiêu này
dường như thích hợp hơn cả trong sự đánh giá của quân đội Liên Xô bởi sự hủy
diệt lớn, sức mạnh răn đe cao, tấn công phủ đầu trong tầm với của nhiều loại
tên lửa Liên Xô. Tuy nhiên, nó chỉ xảy ra nếu Trung Quốc cũng có ý định làm
điều tương tự với Việt Nam.
Kịch bản thứ hai: Liên Xô sẽ mở
một cuộc đột kích quân sự lớn bao gồm cả tấn công trực diện vào thủ đô Bắc
Kinh hoặc mở một cuộc tấn công quy mô lên hàng loạt tỉnh phía bắc Trung Quốc,
giống như chiến dịch Bắc Kinh đang tiến hành ở Việt Nam hay sử dụng phương
thức đổ bộ đường không nhanh chóng đổ quân xuống vùng đồng bằng tuyết phủ của
Tân Cương và khu vực Mãn Châu - trung tâm công nghiệp nặng của Trung Quốc.
Tuy nhiên, kịch bản này có thể xảy ra
trong trường hợp đáp trả tương đương, nếu Trung Quốc tiến quân xuống vùng
đồng bằng của Việt Nam, uy hiếp đến Hà Nội, Hải Phòng hoặc tiếp tục tăng
quân, mở rộng quy mô chiến tranh hay sử dụng đến các lực lượng không quân,
hải quân.
Kịch bản thứ
ba: Quân đội Liên Xô sử dụng hàng loạt cuộc giao tranh nhỏ gây
ra sự căng thẳng dọc tuyến biên giới giữa hai nước; đồng thời hỗ trợ các phần
tử dân tộc thiểu số vũ trang đang lưu vong quay về tấn công vào các tiền đồn
Trung Quốc ở Tân Cương (Xinjiang) và Nội Mông (Inner Mongolia). Hoạt động này
có thể sẽ gây bất ổn kéo dài đối với khu vực biên giới Trung Quốc, khiến
Trung Quốc liên tục phải đối phó với tình hình căng thẳng trên toàn tuyến
biên giới.
Đây là phương án dễ xảy ra, nếu Trung
Quốc tiếp tục cuộc chiến tranh tiêu hao trên toàn tuyến biên giới Việt Nam
hoặc có ý định chiếm giữ lâu dài các khu vực mà quân đội nước này mới cướp
đoạt được của Việt Nam.
Ngoài ra, cũng có thể là Liên Xô sẽ kết
hợp tất cả các phương án này khiến Trung Quốc đứng trước những đòn tấn công
quân sự rất nguy hiểm, không chỉ trong thời gian trước mắt mà cả lâu dài về
sau.
Mặc dù giới chuyên gia quân sự đã đưa
ra những nhận định về các phương án mà Liên Xô có thể sử dụng để giáng đòn
vào Trung Quốc, nhưng họ cũng cho rằng, khả năng xung đột quân sự trực tiếp
giữa Moscow và Bắc Kinh là rất thấp.
Vì sao khó xảy ra xung đột quân sự
Xô-Trung?
Theo nhận định của tờ báo Anh “The
Times” trong một bài viết vào tháng 3/1979, ý định bảo vệ Việt Nam của Liên
Xô là hết sức nghiêm túc, nhưng nếu cuộc chiến tranh xâm lược vẫn nằm trong
phạm vi đối phó của Hà Nội thì Moscow sẽ không can thiệp quân sự.
Tờ thời báo “The Times” đã dẫn phân
tích của các chuyên gia nhận định, nếu quân đội Việt Nam đủ khả năng kháng cự
và vẫn giữ vững mặt trận thì Liên Xô sẽ chỉ tiến hành cuộc chiến tranh trên
mặt trận ngoại giao, tăng cường viện trợ cho Việt Nam và chuẩn bị tâm thế
“sẵn sàng can thiệp”.
Tớ báo này cho rằng, Liên Xô sẽ tham
chiến giúp đỡ Việt Nam khi và chỉ khi Trung Quốc tiếp tục leo thang chiến
tranh, tấn công xuống đồng bằng, ví dụ như uy hiếp Hà Nội và Hải Phòng, hoặc
đồn trú lâu dài trên những vùng đất chiếm được hoặc sử dụng đến các lực lượng
chiến lược như máy bay ném bom, tên lửa đạn đạo hay đe dọa sử dụng bom nguyên
tử…
Trong tình huống đó để thể hiện sự kiên
quyết và sức mạnh trước toàn thế giới, giữ lời cam kết với đồng minh, Liên Xô
sẽ tham gia giải quyết xung đột.
Tuy nhiên, những phân tích này chỉ đơn
thuần là những vấn đề mang tính tình huống phát sinh trong chiến tranh, còn
trên thực tế, có nhiều vấn đề ở trên tầm đại cục, có ảnh hưởng lớn hơn đối
với cả Việt Nam và trên tầm thế giới khiến chiến tranh Xô-Trung khó có thể xảy
ra.
Thứ nhất là:
Liên Xô tôn trọng tinh thần tự cường của dân tộc ViệtNam
Mặc dù không có một tuyên bố chính thức
nào đưa ra, nhưng có thể tin rằng: Việt Nam sẽ không nhờ Liên Xô đánh Trung
Quốc, bởi trong lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, quân dân Việt
Nam chưa bao giờ "nhờ" bất cứ nước nào đánh đuổi giặc ngoại xâm
thay mình.
Truyền thống độc lập, tự cường là bản
chất, là truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, đã giúp dân tộc ta tự
đứng vững trước những cuộc xâm lược và âm mưu đồng hóa của các thế lực bành
trướng, xâm lược.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cũng
đã có nhiều lời đề nghị cử quân sang giúp đỡ nhưng Việt Nam đều lịch sự từ
chối, bất chấp việc chúng ta phải liên tiếp tiến hành 2 cuộc chiến tranh khốc
liệt với 2 đế quốc mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ là Pháp và Mỹ.
Tinh thần tự tôn, độc lập của
Việt Nam là một yếu tố quan trọng khiến Liên Xô không can thiệp quân sự ở cấp
độ cao.
Trên thực tế, máu của những người
anh em Liên Xô cũng đã đổ trên đất Việt Nam khi vào hồi tháng 3/1979, chiếc
máy bay của hàng không Việt Nam An-24 chở đoàn cố vấn quân sự Liên Xô đã gặp
phải sự cố khi hạ cánh xuống sân bay Đà Nẵng, khiến 6 phi công, chuyên gia
huấn luyện và Thiếu tướng không quân Malyh hy sinh.
Trên thực tế, sức mạnh quân sự mà Liên
Xô đã triển khai trên toàn tuyến biên giới với Trung Quốc đã khiến những cái
đầu nóng phải đắn đo cân nhắc, khiến nhà cầm quyền quyền Bắc Kinh vội vã rút
hết quân khỏi lãnh thổ nước ta, thậm chí còn không dám điều chuyển bất cứ đơn
vị nào từ nội địa lên biên giới Xô-Trung vì sợ Liên Xô “hiểu nhầm là hành
động khiêu khích”.
Thứ hai:
Liên Xô tin vào khả năng thực chiến của Việt Nam
Một vấn đề rất quan trọng là Liên Xô
rất tin tưởng khả năng của quân đội Việt Nam đối phó với một cuộc chiến tranh
thông thường, kể cả với một kẻ địch mạnh như Trung Quốc.
Những kinh nghiệm tác chiến mà Việt Nam
có được từ 2 cuộc chiến tranh với 2 cường quốc lớn nhất thế giới là Pháp và
Mỹ, cùng với sự thiện chiến của bộ đội, dân quân, du kích Việt Nam là cơ sở
để cả ta và bạn vững tin vào chiến thắng.
Bởi vậy, những luận điểm phê phán tính
thực chất của Hiệp định hợp tác hữu nghị Việt-Xô chỉ là sự ngụy biện, nhằm li
gián tình hữu nghị giữa 2 nước anh em, hoặc là chưa hiểu hết về truyền thống
tự cường của con người Việt Nam.
Sự ủng hộ về cả vật chất lẫn tinh thần
quý báu của Liên Xô và khối Xã hội Chủ nghĩa là sự động viên lớn lao đối với
Việt Nam, là động lực để quân và dân ta giành chiến thắng trong cuộc chiến
tranh biên giới Việt-Trung.
(Còn nữa)
(Theo Đất Việt)
Thiên Nam
|
Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét