Chiến tranh xâm lược biên giới, khúc quanh lịch sử
trong quan hệ Việt - Trung
LTS:
Chia sẻ về "khúc quanh lịch sử" trong quan hệ Việt Nam - Trung
Quốc, tác giả Đặng Việt Thủy tiếp tục có bài viết gửi đến độc giả Báo Điện tử
Giáo dục Việt Nam.
Tòa soạn trân trọng gửi đến độc giả bài viết.
Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng "núi liền núi,
sông liền sông". Tình hữu nghị giữa nhân dân hai nước được hình thành
trong quá trình lịch sử và được củng cố và phát triển khi nhân dân hai nước
thực sự làm chủ vận mệnh của mình.
Trong quá trình
đấu tranh cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chủ tịch Mao Trạch Đông đã dày
công vun đắp mối tình hữu nghị Việt - Trung.
Đảng, Chính phủ và nhân dân hai nước đã sát cánh bên nhau, giúp
đỡ lẫn nhau với tinh thần quốc tế cao cả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói:
"Mối tình thắm thiết Việt - Hoa
Vừa là đồng chí, vừa là anh em".
Nhưng trên thực tế, lịch sử có những
bước thăng trầm. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc đã có lúc đi vào một khúc
quanh nghiêm trọng.
Ngày 17/2/1979,
đánh dấu một "khúc quanh lịch sử" quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Đó
là sự kiện Trung Quốc sử dụng lực lượng lớn quân đội có pháo binh, xe tăng
yểm trợ tiến công xâm lược Việt Nam trên toàn tuyến biên giới Việt - Trung.
Cuộc chiến tranh biên giới quy mô lớn diễn ra một tháng, thực
chất là một lần "xuất quân lớn" của quân đội Trung Quốc xâm lược
trên toàn tuyến biên giới vào Việt Nam.
Chiến tranh đã làm làm cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa
hai nước bị tổn thương nghiêm trọng.
Sách báo phương
Tây gọi sự kiện này là "Anh em đỏ chiến tranh
với nhau" (Thời
báo New York ngày 19/2/1979).
Đối với nhân dân Việt Nam và nhân dân Trung Quốc thì cuộc chiến
tranh là một sự thực đau lòng. Vì sao chiến tranh lại xảy ra?
Ngày 30/4/1975, sau khi giành được thắng lợi hoàn toàn trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, nhân dân Việt Nam luôn luôn mong muốn xây
dựng đất nước trong hòa bình, song đã phải đối phó với cuộc chiến tranh trên
biên giới Tây Nam do nhà cầm quyền "Cam-pu-chia dân chủ" (Khmer Đỏ)
do Pôn Pốt, Iêng-Xari đứng đầu gây ra.
Cuối năm 1978, đầu năm 1979, sau khi kiên quyết giáng trả hành
động xâm lấn lãnh thổ của quân đội "Cam-pu-chia dân chủ", theo lời
kêu gọi của Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Cam-pu-chia, quân tình nguyện
Việt Nam phối hợp với các lực lượng cánh mạng Cam-pu-chia đánh đổ tập đoàn
phản động Pôn Pốt, cứu nhân dân Cam-pu-chia khỏi họa diệt chủng.
Ngày 7/1/1979, thủ đô Phnôm Pênh hoàn toàn giải phóng, nhân dân
Cam-pu-chia thực sự làm chủ vận mệnh của mình.
Hơn một tháng sau, ngày 17/12/1979, hàng chục vạn quân Trung Quốc
đã đồng loạt tiến công vào sáu tỉnh biên giới Bắc Việt Nam, gây ra cuộc chiến
tranh tàn khốc với nhân dân Việt Nam.
Bằng lực lượng lớn, quân Trung Quốc tập trung đánh vào Cao Bằng,
Lạng Sơn, Lào Cai, Phong Thổ (Lai Châu) của Việt Nam.
Trên hướng Lạng Sơn, Trung Quốc dùng Quân đoàn 43, 54, 55 đánh
chiếm Đồng Đăng, Tam Lung, Lộc Bình và thị xã Lạng Sơn.
Trên hướng Cao Bằng, Trung Quốc dùng Quân đoàn 41, 42 đánh chiếm
thị xã Cao Bằng, mỏ thiếc Tĩnh Túc.
Trên hướng Lào Cai, Trung Quốc dùng Quân đoàn 13, 14 đánh chiếm
thị xã Lào Cai, mỏ A-pa-tít Cam Đường.
Trên hướng Phong Thổ (Lai Châu), Trung Quốc dùng Quân đoàn 11
đánh chiếm thị trấn Phong Thổ.
Như vậy, Trung Quốc đã dùng tới chín quân đoàn chủ lực, 2.558
khẩu pháo, 550 xe tăng và xe thiết giáp vào cuộc tiến công Việt Nam.
Ở Cao Bằng, quân Trung Quốc tiến sâu vào đất Việt Nam từ 40 đến
45 ki lô mét. Ở Lạng Sơn, Lào Cai, quân Trung Quốc cũng tiến sâu vào đất Việt
Nam từ 10 đến 15 ki lô mét.
Các hướng tiến công của quân Trung Quốc ngay trong những ngày đầu
đã bị bộ đội địa phương và dân quân, tự vệ Việt Nam chặn đánh.
Lính Trung Quốc sau một trận đánh đẫm máu.
Trong năm ngày (từ 17-21/2/1979), quân và dân Việt Nam đã đánh
thiệt hại nặng 14 tiểu đoàn quân Trung Quốc, bắn cháy và phá hủy 140 xe tăng
và xe bọc thép.
Các trận chiến đấu diễn ra quyết liệt trên hướng Lạng Sơn, Cao
Bằng và Lào Cai. Đặc biệt, các trận chiến đấu ở Đồng Đăng và thị xã Lạng Sơn,
quân Trung Quốc với nhiều trung đoàn bộ binh, có xe tăng và pháo binh yểm
trợ, chia thành nhiều hướng tiến công đồng loạt.
Quân và dân Lạng Sơn đã hiệp đồng chặt
chẽ giữa các lực lượng, kiên quyết ngăn chặn các mũi tiến công của quân Trung
Quốc.
Chỉ trong ba ngày (27, 28/2 và ngày 1/3), quân và dân Lạng Sơn đã
đã đánh thiệt hại nặng và loại khỏi vòng chiến đấu một trung đoàn, ba tiểu
đoàn quân Trung Quốc, phá hủy nhiều phương tiện chiến tranh.
Trước sức tiến công mạnh mẽ của quân và dân ta, trước những tổn
thất lớn và tình hình dư luận thế giới kịch liệt lên án, phản đối cuộc chiến
tranh do Trung Quốc gây ra, ngày 5/3/1979, Trung Quốc tuyên bố rút quân. Từ
ngày 6/3/1979, phía Trung Quốc bắt đầu vừa đánh vừa rút quân.
Đến ngày 20/3/1979, phần lớn quân Trung Quốc rút về bên kia biên
giới, số còn lại chiếm đóng khu vực mốc 121 ở Cần Yên, mốc 94 ở Trà Lĩnh, mốc
63 ở Trùng Khánh, mốc 121 Thông Nông.
Trên hướng Lạng Sơn, đối phương còn chiếm đóng hai vị trí là điểm
cao 605 giáp Khơ Đa - mốc 15 Đông huyện Văn Lãng và khu vực bình độ 400 huyện
Cao Lộc.
Điều đáng chú ý
là, sau khi tuyên bố rút quân, Trung Quốc vẫn duy trì 12 sư đoàn và hàng chục
trung đoàn độc lập áp sát biên giới Việt Nam, thường xuyên gây tình hình căng
thẳng, tiếp tục lấn chiếm lãnh thổ Việt Nam ở mọi quy mô, thực hiện kiểu "chiến tranh phá hoại nhiều mặt".
Cuộc chiến
tranh trên biên giới Việt - Trung diễn ra trong vòng hơn một tháng, được phía
Trung Quốc tuyên bố là đã "dạy cho Việt Nam một
bài học", "đánh sập huyền thoại về tài bách chiến bách thắng của
quân đội Việt Nam".
Nhưng thực tế
thì ngược lại, tờ Nhật báo Phố Wall Mỹ,
số ra ngày 6/3/1979, dưới đầu đề: "Ai cho ai bài học" đã viết:
"Sau khi tính số lỗ lãi của đòn trừng
phạt Việt Nam vừa qua của Trung Quốc, thế giới có thể nhất trí rằng: Trung
Quốc đã phải rút khỏi cuộc chiến tranh với uy tín bị tổn thương và mặt mày
đầy máu me, thương tích...".
Tiến công Việt Nam, Trung Quốc thực sự đã tiến hành một cuộc
"xuất quân lớn" nhằm phá hoại và làm suy yếu Việt Nam, đánh một đòn
nặng vào cơ sở kinh tế, vật chất ở các tỉnh biên giới phía Bắc của Việt Nam,
làm cho Việt Nam mất thế ổn định.
Hậu quả là nhiều làng mạc, thị xã bị phá trụi, đường giao thông,
các thiết bị sản xuất, các cơ sở y tế, trường học... bị phá hoại không hoạt
động được.
Các thị xã Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai,
Cam Đường bị phá hủy hoàn toàn.
330 làng bản, 735 trường học, 428 bệnh viện và trạm xá, 41 nông
trường, 38 lâm trường, 81 xí nghiệp, hầm mỏ, 80.000 héc-ta lương thực và hoa
màu bị phá hủy.
Khoảng một nửa trong số 3,5 triệu dân ở sáu tỉnh biên giới mất
nhà cửa, hàng nghìn người Việt Nam, trong đó chủ yếu là các cụ già, phụ nữ và
trẻ em bị chết và bị thương...
Ngoài ra, còn có nhiều công trình văn hóa, lịch sử, nhiều nhà bảo
tàng ở các địa phương cũng bị đối phương phá hủy.
Cuộc chiến tranh do Trung Quốc phát động đã làm tổn hại mối quan
hệ truyền thống tốt đẹp giữa nhân dân Việt Nam và Trung Quốc. Đó là một
"khúc quanh lịch sử" trong quan hệ Việt Nam - Trung Quốc.
Cuộc chiến tranh trên biên giới Việt - Trung đã kết thúc. Hòa
bình, hữu nghị, hợp tác cùng phát triển đã đến với nhân dân hai nước Việt -
Trung.
Những đau khổ mà nhân dân hai nước phải gánh chịu trong chiến
tranh là bài học xương máu phải được nhận thức đầy đủ.
Nhân dân Việt
Nam và nhân dân Trung Quốc đều không muốn chiến tranh. Người Trung Quốc
thường nói: "Kỷ sở bất dục vật thi ư
nhân" (Cái mà mình không muốn thì đừng gây ra
cho người khác). Quá khứ vẫn là quá khứ, nhưng tương lai luôn ở phía trước.
Tình hữu nghị giữa Việt Nam và Trung Quốc đang được củng cố và
phát triển. Chúng ta mong rằng với bài học của quá khứ và sự nỗ lực của cả
nhân dân hai nước theo đúng những nguyên tắc, mà lãnh đạo hai Đảng, hai Chính
phủ đã chấp thuận, tình hữu nghị đó sẽ ngày càng phát triển tốt đẹp.
Tài liệu tham khảo:
- Nhiều tác
giả, Sự thật về những lần xuất quân
của Trung Quốc và quan hệ Việt -Trung, Nhà xuất bản Đà Nẵng, Đà Nẵng - 1996.
- Bộ Tư
lệnh Quân khu 1, Lịch sử lực lượng vũ trang Quân
khu 1 (1975-2010),Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội - 2010.
|
Thứ Hai, 11 tháng 2, 2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét