'Việt Nam không cần xây thêm nhà máy
điện than mới'
Cập nhật lúc 08:18
Việt
Nam có khả năng không cần xây thêm nhà máy điện than mới mà vẫn đảm bảo
được hệ thống năng lượng an toàn và khả thi về kinh tế.
So với Quy
hoạch Điện VII điều chỉnh, Bản thiết kế cho tương lai năng lượng sạch Việt
Nam do Trung tâm Phát triển Sáng tạo Xanh (GreenID) công bố gần đây đề xuất,
đến năm 2030 tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo từ khoảng 21% lên khoảng 30%;
tăng tỷ trọng nhiệt điện khí từ khoảng 14,7% lên khoảng 22,8%; và giảm tỷ
trọng của nhiệt điện than từ khoảng 42,6% xuống còn khoảng 24,4%.
Với việc thay
đổi cơ cấu nguồn điện như đề xuất trên, GreenID tin rằng, sau năm 2020, Việt
Nam có khả năng không cần xây dựng thêm các nhà máy điện than mới mà vẫn đảm
bảo được hệ thống năng lượng an toàn và khả thi về kinh tế.
Bản thiết kế
của GreenID chỉ ra 6 lợi ích quan trọng mang lại cho Việt Nam khi giảm điện
than gồm: Tăng cường an ninh năng lượng do giảm tỷ lệ nhập khẩu than. Tránh
được việc phải xây dựng thêm khoảng 30.000 MW nhiệt điện than vào năm 2030,
tương đương khoảng 25 nhà máy điện than. Giảm được áp lực phải huy động 60 tỷ
USD vốn đầu tư cho những dự án nhiệt điện than này. Tránh được việc đốt
khoảng 70 triệu tấn than/năm tương ứng với 7 tỷ USD/năm cho việc nhập khẩu
than. Giảm phát thải khoảng 116 triệu tấn CO2/năm so với Quy hoạch Điện VII
điều chỉnh, đưa Việt Nam theo đúng với mục tiêu của Thỏa thuận Paris. Giảm ô
nhiễm không khí và nguồn nước. Ước tính kịch bản này sẽ giúp tránh được
khoảng 7.600 ca tử vong sớm hằng năm vào năm 2030 so với Quy hoạch Điện VII
điều chỉnh.
Theo ông Trần Đình Sính, Phó Giám đốc
GreenID, hiện tại, giá nhiệt điện than rẻ hơn năng lượng tái tạo do chưa bao
gồm chi phí ngoại biên, tức chi phí được xác định dựa trên ước tính chi phí
phát sinh đối với xã hội và môi trường do chất ô nhiễm từ việc phát điện gây
ra. Các chất gây ô nhiễm được xem xét chủ yếu là oxit lưu huỳnh (SOx), oxit
nitơ (NOx) và dioxit cacbon (CO2).
"Thực tế, đây là chi phí có thực
mà người dân và chính phủ đang và sẽ phải gánh chịu chứ không phải là nhà đầu
tư. Nếu xem xét chi phí này, tất cả các công nghệ năng lượng tái tạo đều trở
nên cạnh tranh hơn về chi phí so với các công nghệ nhiệt điện than. Thậm chí
nếu năng lượng tái tạo có giá thành sản xuất cao thì giá này vẫn chỉ bằng giá
năng lượng hóa thạch khi xét đến chi phí ngoại biên", ông Trần Đình Sính
khẳng định.
Theo tính toán của Quỹ Tiền tệ Quốc tế
(IMF), chi phí cho vấn đề sức khỏe và môi trường nếu tiếp tục phát triển các
nhà máy nhiệt điện than theo Quy hoạch Điện VII hiện nay có thể lên tới 15 tỷ
USD vào năm 2030. Tính toán này dựa vào điện lượng từ nhiệt điện đốt than vào
năm 2030 là 311 TWh.
Cũng theo IMF, chi phí xã hội và môi
trường ở Việt Nam lên tới 2,26 USD/GJ (tương đương với 8,07 đô la
Mỹ/1MWh) đối với than, 0,12 USD/GJ cho khí đốt tự nhiên và CO2 được định
giá ở mức 35 USD/tấn.
Ông Trần Đình Sính cho rằng, việc
thay đổi cơ cấu nguồn điện, trong đó giảm tỷ trọng
nhiệt điện than, tăng tỷ trọng nhiệt điện khí và năng lượng tái tạo
giúp Việt Nam lợi đủ đường và phương án này hoàn toàn khả thi.
Đối với nhiệt điện khí, cũng giống như
than, Việt Nam có nguồn khí đốt
trong nước, nhưng trữ lượng nhiên liệu này là hữu hạn. Dần dần các nhà máy nhiệt điện khí sẽ phụ thuộc vào nhiên liệu nhập khẩu.
Tuy nhiên, so với nhập khẩu than thì
nhập khẩu khí đốt có lợi hơn khối lượng nhập khẩu khí chỉ bằng 1/3 so với
than.
"Chẳng hạn như nhiệt điện Long An,
chúng tôi ước tính nếu nhập than thì mỗi ngày phải cần đến 30.000 tấn, nhưng
nếu nhập khí thì chỉ cần 10.000 tấn/ngày. Hơn nữa, với nhiệt điện Long An,
một khi có nhà đầu tư sẵn sàng đầu tư nếu sử dụng công nghệ khí hóa
lỏng tức là họ sẽ chịu trách nhiệm đảm bảo nguồn khí đốt cho nhà
máy", ông Sính nói.
Đối với dạng năng lượng tái
tạo, đặc biệt là năng lượng gió và mặt trời, Việt Nam có tiềm năng rất
lớn để phát triển. Phần lớn tiềm năng năng lượng tái tạo ở
Việt Nam vẫn chưa được khai thác. Chỉ 2.503 MW năng lượng tái tạo được
khai thác cho đến năm 2015 so với tổng tiềm năng kỹ thuật là 329.708 MW. Năng
lượng mặt trời và năng lượng gió đứng đầu với tiềm năng kỹ thuật lần lượt là
339.600 MW và 26.760 MW.
Năng lượng gió và năng lượng mặt trời
thường được cho là dạng năng lượng không ổn định do phụ thuộc vào điều kiện
thời tiết. Tuy nhiên, vấn đề này có thể giải quyết được bằng hệ thống lưu trữ
năng lượng, ví dụ như thủy điện tích năng, giúp lưu trữ khi thừa điện và phát
vào lưới khi thiếu. Những hệ thống lưu trữ điện như vậy nâng cao độ tin cậy
của hệ thống và giảm tình trạng mất điện.
Quy hoạch Điện VII điều chỉnh đã quy
hoạch 3 nhà máy thủy điện tích năng trong đó một ở miền Trung, một ở Tây
Nguyên và một ở miền Bắc. Ngay cả khi không có hệ thống lưu trữ, điện mặt
trời vẫn có thể đóng góp rất lớn cho lưới điện vào những khung giờ cao điểm,
trong đó một nửa số giờ có bức xạ mặt trời ở mức cao nhất, vị chuyên gia cho
biết.
Trở lại với các nhà máy nhiệt điện
than, Phó Giám đốc GreenID lưu ý thêm, bắt đầu từ năm 2015, Việt Nam đã trở
thành một nước phụ thuộc nhập khẩu với mức nhập tịnh là 5%. Nhập khẩu ròng
than và dầu là nguyên nhân chính của tình hình này. Việc nhập khẩu than sẽ
tiếp tục tăng vì theo Quy hoạch Điện VII điều chỉnh lượng than cần
cho các nhà máy điện đến năm 2030 dự kiến tăng gần gấp đôi. Hầu hết các dự án
nhiệt điện than BOT bắt đầu thi công từ năm 2015 đều phải dùng than nhập khẩu.
Việc nhập khẩu một
khối lượng lớn than trong khi Việt Nam chưa có một kế hoạch cụ thể nào về
ngân sách, phương tiện vận chuyển, các cảng bốc dỡ là một rủi ro rất
lớn. Những rủi ro ấy có thể là rủi ro về thể chế (can thiệp bất ngờ từ
chính phủ
nước xuất khẩu), rủi ro về thị trường (biến động giá cả, khả năng có hay không có than, cạnh tranh với người mua mới) và rủi ro về tiền tệ (lạm phát, các thay đổi về thuế). Tất cả những nhân tố này có thể chi phối mạnh mẽ thị trường năng lượng tại Việt Nam.
Từ những phân tích trên, vị chuyên
gia nhấn mạnh: "Cứ 10 năm, Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc
gia được ban hành nhằm định hướng cho 10 năm tiếp theo và tầm nhìn cho 10 năm
kế tiếp.
Vào tháng 6/2011, Chính phủ đã ban hành
Quy hoạch Phát triển Điện lực Quốc gia giai đoạn 2011-2020 với tầm nhìn đến
năm 2030. Thế nhưng, quy hoạch này đã được xem xét và điều chỉnh lại vào
tháng 3/2016. Quy hoạch này nhấn mạnh hơn vào sự phát triển của năng lượng
tái tạo và tự do hóa thị trường năng lượng, mặc dù tỷ lệ năng lượng tái tạo
vẫn còn ở mức thấp.
Việc phát triển và khai thác nguồn tiềm
năng năng lượng tái tạo ở Việt Nam nên được xem xét là ưu tiêu hàng đầu trong
chiến lược đảm bảo an ninh năng lượng quốc gia trong hiện tại và tương
lai".
(Theo Đất Việt) Thành Luân
|
Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét