Thứ Ba, 2 tháng 10, 2018

Cổ phần hóa DNNN: Doanh nghiệp mua trâu được cả nghé

Cập nhật lúc 15:29  

PGS.TS Lê Cao Đoàn cho rằng cần xem xét lại toàn diện những thương vụ cổ phần hóa có nguy cơ gây thất thoát để tìm ra giải pháp xử lý.

Trao đổi với báo Đất Việt, vị chuyên gia của Viện Kinh tế Việt Nam khẳng định: “Việc xem xét lại toàn diện sẽ giúp chúng ta đạt được hai mục đích. Một là có được nguồn lực lớn từ quá trình cổ phần hóa, thoái vốn từ các DNNN để phục vụ mục đích đầu tư, phát triển trong nước. Thứ hai, là giúp thiết lập cơ chế quản lý chặt chẽ nguồn tài chính, không cho phép để lọt dù chỉ một đồng tiền của Nhà nước, của nhân dân”.

 Co phan hoa DNNN: Doanh nghiep mua trau duoc ca nghe
PSG.TS Lê Cao Đoàn (phải) tại một cuộc hội thảo

Sai phạm phổ biến
PV: Thanh tra Chính phủ vừa công bố kết luận quá trình cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam (VFS), theo đó, hàng loạt sai phạm đã được chỉ ra. Ông bình luận thế nào về việc này? Theo ông, những sai phạm như thương vụ cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam có phải là cá biệt không và vì sao?
 PGS.TS Lê Cao Đoàn: Trước hết, cần định nghĩa lại khái niệm cổ phần hóa và thoái vốn. Đối với doanh nghiệp tư nhân, việc thoái vốn cũng giống như câu chuyện kinh doanh trên thị trường. Một doanh nghiệp không có năng lực kinh doanh hoặc kinh doanh thua lỗ, nếu vẫn cố lao vào làm, trước sau cũng phá sản. Ngược lại, nếu muốn tổ chức lại, cơ cấu lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn, thì phải thực hiện tái cơ cấu hoặc có thể thoái vốn nhường lại việc kinh doanh cho người khác. Quá trình thoái vốn tại các DNNN cũng có thể được hiểu như vậy.
Về trường hợp VFS, yêu cầu cổ phần hóa VFS cho thấy, chúng ta đã nhận rõ những yếu kém trong hoạt động kinh doanh của hãng phim này. Đồng thời, việc kinh doanh phim ảnh vốn không phải là thế mạnh, không phải là lĩnh vực Nhà nước phải tham gia vào, do đó muốn ngành phim truyện Việt Nam phát triển thì phải cổ phần hóa, giao cho tư nhân làm. Chỉ một nền điện ảnh có cạnh tranh mới cho ra đời những sản phẩm tốt.
Như vậy, việc thoái vốn là đương nhiên. Vấn đề chỉ là thoái vốn thế nào để Nhà nước không mất vốn, mà vẫn có được nền điện ảnh tốt. Nhìn từ phương diện này có thể khẳng định cổ phần hóa Hãng Phim truyện Việt Nam chưa thành công, cả hai mục tiêu trên đều không đạt được.

  
Những sai phạm trong cổ phần hóa Hãng phim truyện Việt Nam đã được chỉ rõ.

Những sai phạm được Thanh tra Chính phủ chỉ ra là cơ sở cho thấy quá trình mua bán tài sản, thương hiệu của Nhà nước tại VFS có quá nhiều vấn đề mờ ám, không rõ ràng. Đầu tiên là hàng loạt vấn đề về quy trình các bước tiến hành cổ phần hóa như: lựa chọn tổ chức tư vấn định giá doanh nghiệp và tư vấn cổ phần hóa; quản lý, sử dụng và thực hiện các quy định của pháp luật về đất đai; quản lý tài sản, tiền vốn và hoạt động kinh doanh; việc xác định giá trị thương hiệu... đều có sai sót, vi phạm.
Như vậy đã rõ, cổ phần hóa mà chỉ tính toán dựa trên nền tảng cơ sở hạ tầng, máy móc đã cũ kỹ, chỉ dựa vào các hoạt động đơn thuần của Hãng Phim truyện thì cổ phần hóa chẳng khác nào "cho không, biếu không".
Về vấn đề sử dụng đất, việc thoái vốn tại Hãng Phim truyện Việt Nam, Thanh tra Chính phủ đã nói rõ, quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp không tính giá trị lợi thế quyền thuê đất nhà nước vào giá trị doanh nghiệp. Vì thế, mới có câu chuyện nhập nhèm, xác định giá thuê bèo bọt, không đúng giá thị trường.
Trong khi đó, với quyền thuê đất vài chục năm (thường là 50 năm) và sẽ được gia hạn thêm nếu không tranh chấp, thì một khi mua được DNNN cổ phần hóa tức gần như đồng nghĩa rằng mảnh đất đó thuộc về bên mua. Đáng chú ý, theo phương án cổ phần hóa DNNN, Nhà nước bán toàn bộ vốn tại doanh nghiệp, VIVASO sở hữu 65% cổ phần VFS cũng đồng nghĩa là sau cổ phần hóa, nhà đầu tư có thể chi phối số phận các khu đất vàng này.
Thông qua việc chi phối, gia tăng quỹ đất chính là cách nhanh nhất giúp tài sản của một số nhà đầu tư, một số nhóm người nhanh chóng "nở" ra, còn tài sản của Nhà nước thì ngày càng teo tóp lại.
Đây không phải là trường hợp cá biệt. Thực tế, một số DNNN có lợi thế về đất đã bị các nhà đầu tư thâu tóm, thực chất chỉ để lấy đất, triển khai các dự án bất động sản. Điểm lại hàng loạt thương vụ cổ phần hóa đình đám trước đó như Kem Tràng Tiền, Tổng công ty Vật tư nông nghiệp (Vigecam), Khách sạn Kim Liên, khu Triển lãm Giảng Võ, đất của Cao su Sao Vàng... sẽ thấy hầu hết các thương vụ cổ phần hóa đều rơi vào tay các nhà đầu tư kinh doanh bất động sản. Điều này càng cho thấy, nhà đầu tư tham gia vào cổ phần hóa DNNN không phải vì mục đích tái cơ cấu, giúp doanh nghiệp phát triển tốt hơn, mà thực chất là quan tâm tới quỹ đất lớn, vị trí đắc địa mà các doanh nghiệp này đang sở hữu.
Vì lý do trên mà dư luận luôn hoài nghi rằng việc mua cổ phần Hãng Phim truyện Việt Nam chủ yếu để nhắm vào đất vàng, cổ phần hóa thực chất là chờ cơ hội hóa giá tài sản của nhà nước, biến tài sản của nhà nước thành tài sản tư nhân. Hoặc cổ phần hóa nhưng thực chất là mua đi bán lại, tự mình bán cho mình, là sang tên, chuyển nhượng cho các doanh nghiệp thân hữu, sân sau, cho nhóm lợi ích để sở hữu tài sản của nhà nước một cách hợp pháp, đúng quy trình.
PV: Song song với việc công bố những sai phạm trong công tác cổ phần hóa, Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo “Bộ VH-TT-DL xây dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện ngay các quy trình, thủ tục theo quy định để cho nhà đầu tư chiến lược VIVASO rút vốn trước thời hạn. Vậy phải hiểu thế nào về động thái trên của VIVASO? Có ý kiến cho rằng, đây là động thái "bỏ của chạy lấy người", thấy khó mà bỏ của nhà đầu tư, ông có đồng tình với nhận định trên không?
PGS.TS Lê Cao Đoàn: Như đã phân tích ở trên, nếu cổ phần hóa chỉ nhắm vào cơ sở hạ tầng như nhà xưởng, máy móc, thiết bị của VFS thì giá trị gần như bằng 0. Không có nhà đầu tư nào sẵn sàng đổ tiền chỉ để thừa kế những tài sản cũ nát nói trên, nếu không nhìn thấy triển vọng phát triển tốt hơn sau thương vụ mua bán này. Tổng công ty Vận tải Thủy (VIVASO) chắc chắn không phải là ngoại lệ.
Tuy nhiên, dù đã nắm giữ cổ phần chi phối nhưng ở đây đã có những nghi vấn nhập nhèm trong quá trình thực hiện cổ phần hóa. Khi kết luận của Thanh tra Chính phủ được công bố, chúng ta đều biết đã có việc thanh tra, xem xét lại toàn bộ quá trình diễn ra việc thoái vốn tại doanh nghiệp này. Điều này có thể ngầm hiểu, có sai phạm sẽ phải có xử lý, có thất thoát chắc chắn sẽ phải thu hồi.

  
Thương vụ cổ phần hóa Cảng Quy Nhơn cũng đang được xem xét lại

Đứng trên phương diện của nhà đầu tư phản ứng trên là phù hợp. Khi phương án đầu tư không thuận lợi như kế hoạch ban đầu hoặc lợi ích của nhà đầu tư có nguy cơ xấu hơn kỳ vọng, họ phải tính tới phương án rút vốn, không đầu tư nữa.
Khi giá trị đất đai không đem lại lợi thế cho họ, trong khi thế mạnh của nhà đầu tư chiến lược là kinh doanh đất, kiếm lợi từ việc mua đi bán lại chứ không phải sản xuất phim ảnh, sẽ không thể làm phim được. Việc rút lui là đương nhiên.
Như vậy, VIVASO vội vàng xin rút vốn trước thời hạn cũng không có gì khó hiểu. Không loại trừ khả năng, đây có thể là một phản ứng kiểu "không ăn được thì bỏ", "bỏ của chạy lấy người" hoặc cũng có thể muốn lảng tránh trách nhiệm liên quan.
Không để doanh nghiệp mua trâu được cả nghé
PV: Một điểm đáng chú ý, tại kết luận, Thanh tra Chính phủ cũng kiến nghị Bộ VH-TT-DL chủ trì làm việc với nhà đầu tư mới để thực hiện các quy trình, thủ tục tiếp nhận và chuyển giao Hãng phim. Điểm khúc mắc lớn hiện nay là, quá trình thoái vốn này sẽ diễn ra thế nào để đảm bảo đồng thời hai mục tiêu: một là, nhà nước không thua thiệt; hai là, nhà nước không trở lại nắm giữ cổ phần ở các doanh nghiệp đã cổ phần hóa. Nếu vậy, muốn thực hiện được thì phải thực hiện như thế nào?
PGS.TS Lê Cao Đoàn: Tới đây thì cần phải nhìn nhận lại quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp này. Phải xem câu chuyện cổ phần hóa, thoái vốn tại VFS là câu chuyện của nền kinh tế thị trường. Về bản chất đây là cuộc mua đi - bán lại lần thứ hai. Nói chính xác là Nhà nước bán đi, giờ mua lại, để sau đó lại bán đi.
Ở đây tôi lưu ý một vấn đề rất quan trọng đó là, trước khi làm việc với nhà đầu tư mới để thực hiện các quy trình, thủ tục tiếp nhận và chuyển giao hãng phim thì việc xác định lại giá trị tài sản của doanh nghiệp phải được thực hiện rất minh bạch, công khai, chính xác.
Hãng phim có trách nhiệm liệt kê đầy đủ tài sản, các diện tích đất đai mà doanh nghiệp đang sở hữu, sử dụng, khai thác hoặc thuê của nhà nước. Những tài sản nào không được tính vào giá trị của doanh nghiệp khi bán vốn cho VIVASO thì giờ cũng không được tính vào. Các diện tích đất đai hãng phim thuê lại của nhà nước làm nhà xưởng phục vụ sản xuất kinh doanh mà VIVASO đang sử dụng giờ phải trả lại cho nhà nước.
Về phần VIVASO sẽ xác định cụ thể nguồn vốn nhà đầu tư đã bỏ ra khi tham gia vào quá trình cổ phần hóa VFS lần thứ nhất. VIVASO sẽ được xem xét hoàn lại phần vốn đúng với giá trị nhà đầu tư này đã bỏ ra khi mua lại cổ phần của VFS. Giá trị thoái vốn chỉ được xác định dựa trên giá trị tài sản được định giá trong lần thoái vốn thứ nhất. VIVASO muốn thuê lại các khu đất mà VFS từng sử dụng bắt buộc phải theo cơ chế đấu thầu và theo đúng giá thị trường.
Câu chuyện tiếp theo là thoái lại vốn hãng phim lần 2 như thế nào để vừa bảo đảm nhà nước không thua thiệt, nhưng nhà nước cũng không thể ôm đồm một lĩnh vực mà tư nhân có thể làm tốt hơn.
Muốn vậy, để tránh xảy ra những sai sót như trước đó, việc thoái vốn lần hai trước hết phải xác định rõ mục tiêu cổ phần hóa là để nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp nhà nước trong ngành, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh cốt lõi hay cổ phần hóa chỉ đơn giản là bán vốn thu tiền về? Khi xác định rõ được mục tiêu cổ phần hóa thì mới có được phương án cổ phần hóa hiệu quả nhất.
Quan trọng nhất, việc cổ phần hóa phải đi vào thực chất chứ không phải hình thức. Doanh nghiệp sau khi cổ phần hóa phải có được nhà đầu tư chiến lược có thể giúp "thay máu" cho doanh nghiệp không chỉ về tài chính mà còn là quy trình quản lý, nâng cao hiệu suất kinh doanh, chứ không phải mua cổ phần chỉ nhắm vào mục đích bán tài sản thu lợi.
Quan điểm của tôi là nhà nước nên rút hoàn toàn vốn, giao cho tư nhân toàn quyền quản lý, điều hành lĩnh vực này.
Tôi xin nhắc lại rằng, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước phải được nhìn nhận theo góc độ kinh tế và việc thoái vốn phải theo cơ chế thị trường. Cần xác định rất rõ người mua - người bán, bán cái gì, giá bao nhiêu... tất cả đều phải rất rõ ràng, minh bạch. Chỉ khi làm được như vậy, mục đích cổ phần hóa mới thành công, và chỉ khi làm được như vậy mới hạn chế được nguy cơ thất thoát tài sản của nhà nước.
Đặc biệt, khi mọi giá trị đều công khai, minh bạch cũng giúp quá trình cổ phần hóa, thoái vốn trở nên minh bạch, rõ ràng hơn, tránh được tình trạng "bán hớ", bán không đúng giá, giúp nhà đầu tư mua trâu nhưng lại được thêm cả con nghé như hàng loạt thương vụ mua bán, cổ phần hóa được thực hiện thời gian qua.
Cần xem xét toàn diện các thương vụ cổ phần hóa
PV: Điểm lại hàng loạt thương vụ cổ phần hóa gây nhiều tai tiếng thời gian qua như: thương vụ mua bán giữa Tổng công ty Viễn thông Mobifone và Công ty cổ phần Nghe nhìn Toàn cầu (AVG); Công ty đầu tư xây dựng số 2 Hà Nội (HACINCO); sai phạm trong cổ phần hóa tại cảng Quy Nhơn... ông có cho rằng vấn đề trên càng cần phải xem xét kỹ lưỡng hơn không?
PGS.TS Lê Cao Đoàn: Chắc chắn rồi, cổ phần hóa DNNN không thể dễ dãi, xuê xoa như trước nữa. Đồng ý, cổ phần hóa phải theo nguyên tắc chung, nhưng khi xác định giá trị tài sản của doanh nghiệp phải căn cứ dựa trên nhiều yếu tố, trong đó phải xét tới cả tính đặc thù riêng của từng lĩnh vực, từng ngành nghề.
Tôi lấy ví dụ như việc cổ phần hóa cảng Quy Nhơn hay cảng Khuyến Lương (Hà Nội). Không thể nói rằng, không tính giá trị đất đai, kho xưởng, bãi đậu vào giá trị của doanh nghiệp khi thực hiện định giá tài sản để thực hiện cổ phần hóa. Về nguyên tắc, diện tích đất thuê của nhà nước thì không được tính vào giá trị tài sản của doanh nghiệp, nhưng kho bãi, nhà xưởng là yếu tố không thể thiếu đối với hoạt động của một cảng vận tải. Không có bãi đậu, tàu bè không thể ra vào cảng. Không có kho xưởng, sẽ không có nơi bốc xếp hàng hóa. Như vậy, nếu không có tàu thuyền ra vào, không có hàng hóa thì cảng cũng không thể hoạt động được.
Vì vậy, khi thực hiện cổ phần hóa, giá trị cho thuê lại các diện tích đất đai, bến bãi, kho xưởng phải được định giá theo giá trị hoạt động của cảng. Không thể tách riêng phần giá trị hiện hữu là máy móc để định giá tài sản rồi mặc nhiên nhà đầu tư được sử dụng, khai thác hàng nghìn ha đất của doanh nghiệp với giá rẻ như cho.
Vì thế, yêu cầu xem xét kỹ lưỡng quá trình cổ phần hóa là rất cần thiết.
PV: Nếu vậy, theo ông, sau "án lệ" này thì có thể đặt ra khả năng phải lật lại, xem xét lại toàn diện những thương vụ cổ phần hóa có nguy cơ gây thất thoát để tìm ra giải pháp xử lý phù hợp, tránh thất thoát tài sản cho nhà nước? Nếu làm được như vậy, nhà nước sẽ thu hồi được tài sản thế nào, giảm áp lực vay để đầu tư công ra sao, thưa ông?
PGS.TS Lê Cao Đoàn: Việc này không cần phải cân nhắc, bất cứ hoạt động nào có lợi cho đất nước mà vẫn bảo đảm được công bằng cho doanh nghiệp thì đều phải xem xét lại.
Quan trọng nhất là, sau khi xem xét lại toàn diện những thương vụ cổ phần hóa có dấu hiệu sai phạm, gây thất thoát, chúng ta sẽ lập lại được trật tự nên có trong nền tài chính quốc gia.
Chúng ta đã mất quá nhiều, thất thoát quá nhiều nguồn lực từ cổ phần hóa DNNN, trong khi hàng năm chúng ta vẫn phải đi vay hàng tỷ USD từ nước ngoài để phục vụ mục tiêu đầu tư phát triển. Điều này rất lãng phí.
PV: Xin cảm ơn ông!
(Theo Đất Việt) Vũ Lan thực hiện

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét