Một xu hướng không thể
chấp nhận khi nghiên cứu dân tộc
Cập
nhật lúc 09:25
Trong xu thế mở cửa, hội nhập quốc tế, câu hỏi về văn hóa,
về căn cước văn hóa dân tộc thường xuyên trở đi trở lại trong sự tự vấn của cộng
đồng, và ở Việt Nam cũng vậy. Từ sự hỗ trợ của một số lý thuyết khoa học, câu
trả lời có thể sẽ ngày càng sáng tỏ hơn, tuy nhiên, không phải là lý thuyết
nào cũng đưa tới đáp án tích cực, chẳng hạn như lý thuyết "cộng đồng
tưởng tượng"...
Cùng với sự phát triển của tiến trình dân chủ hóa xã hội,
trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta hiện nay, việc nhiều vấn
đề đã hình thành hoặc đang tồn tại như một hình dung tương đối ổn định được
tái thảo luận đã trở nên tương đối phổ biến. Tuy nhiên, đằng sau công việc
tưởng như hết sức bình thường đó lại đang xuất hiện không ít dấu hiệu của
những xu hướng rất bất bình thường. Có thể coi bài Trung Hoa có nhiều điều
khác người Việt đăng trên ấn phẩm Tia sáng của Bộ Khoa học và Công nghệ cuối
năm 2013 vừa qua, sau đó được một số báo điện tử khác đăng lại, là một thí dụ.
Thoạt đọc, thì đây là một bài viết hết sức bình thường,
khi đặt người Việt Nam bên cạnh người Trung Quốc để tiến hành một so sánh
dường như là về căn cước văn hóa của người Việt và người Hoa. Bài viết được
bắt đầu bằng một nhận định dễ có thể nhận được sự đồng cảm, song lại thật sự
đáng ngờ: "Nếu bạn gặp một ai lần đầu ở xứ lạ, mà người đó bảo bạn rằng
bạn là người Việt, không phải là người Hoa, thế mà thật sự đúng là như vậy,
thì người đó quá là tài!". Chúng ta không thể phủ nhận một thực tế là
với sự phát triển của kinh tế Đông Á vào cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, người
Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản đã có mặt ở khắp mọi nơi trên thế giới, cả
với tư cách khách du lịch lẫn nhà đầu tư, hay chuyên gia kỹ thuật, chính vì
vậy việc nhầm lẫn giữa người Việt Nam với người ở các quốc gia này là điều
hoàn toàn dễ hiểu. Điều không bình thường là người viết lại dựa vào một thực
tế mang tính kinh tế - xã hội - văn hóa làm điểm tựa cho hệ thống luận điểm,
có thể nói là rất đáng quan ngại, của bài viết.
Nhằm xây dựng lô-gic triển khai bài báo, người viết mở đầu
bằng một loạt sự tương đồng giữa người Việt Nam và người Trung Quốc, những
tương đồng không thể phủ nhận khi văn hóa Việt Nam từng có lịch sử chịu ảnh hưởng
văn hóa Trung Quốc giống như những dân tộc Đông Á khác, để triển khai cái ý
về sự giống nhau giữa "người Việt và người Hoa, cả về thể chất lẫn tinh
thần". Tuy vậy, luận điểm về sự tương đồng đó chỉ là phần nhỏ, phần lớn
của bài báo lại là phần người viết chứng minh những điểm người Việt khác
người Hoa. Đó là việc cho rằng, người Việt không có tinh thần "nhắm tới tự
quyết tinh thần" (nói thẳng ra là chê trách người Việt chỉ biết du nhập,
làm nô lệ cho những học thuyết ngoại nhập), "tinh thần thực dụng"
(nghĩa là chê trách người Việt viển vông, giáo điều), "bao dung vì
lợi" (người Việt ham nghĩ đến lợi nhỏ, không nghĩ đến các lợi ích lớn),
"chép sử kỹ càng" (nghĩa là người Việt không có nền sử học có giá
trị, chỉ biết sùng bái mù quáng các vĩ nhân)...(!)
Chưa nói việc các luận điểm trên được chống đỡ bằng những
lập luận hết sức đáng ngờ, như khen ngợi người Hoa "không mang tên vĩ nhân
của họ ra đặt cho các địa danh lớn, họ hiểu rằng điều đó không được an bền, và
không lấy được lòng người trong dài lâu" trong khi điều này đã thành thông
lệ của nhiều quốc gia trên thế giới. Dùng một loạt dấu hiệu mang tính kinh
nghiệm để chứng minh sự tương đồng văn hóa giữa người Việt và người Hoa, sau
đó tác giả lựa lọc một số điểm "lớn" trong bản sắc văn hóa của
người Hoa (nhiều điểm rất đáng ngờ như các "thành tựu" trong công
cuộc viễn chinh xâm lược chẳng hạn), những yếu tố mang tính đặc thù của dân
tộc Trung Hoa hình thành nhờ các đặc điểm riêng của dân tộc này rồi chứng
minh rằng người Việt không thể có được những điểm "vĩ đại" đó.
Lô-gic đó, không có gì khác, chỉ có thể dẫn đến kết luận rằng người Việt chỉ
là một phiên bản "bằng máy xấu, giấy xấu" của người Hoa. Người viết
dường như quên mất một điều rằng, mỗi dân tộc là một thực thể có tính đặc thù,
duy nhất, mà các điểm tích cực hay tiêu cực là sản phẩm riêng được tạo nên bởi
hoàn cảnh riêng. Mỗi dân tộc đều có các điểm tích cực và tiêu cực riêng nên nếu
như ở dân tộc A có những yếu tố tích cực mà dân tộc B không có, thì cũng lại có
một thực tế là dân tộc B có những yếu tố tích cực riêng mà khó có thể hiện diện
trong bản sắc của dân tộc A. Chính vì vậy, việc nhận thức bản sắc dân tộc chỉ
có nghĩa khi phân tích trong lô-gic nội tại của chính dân tộc đó. Những so sánh
hơn kém chỉ có thể dẫn đến cái nhìn mang tính kỳ thị. Điều đáng ngạc nhiên là
thứ lô-gic có tính kỳ thị và phản khoa học đó lại xuất hiện ở một tờ báo của
một Bộ chuyên về khoa học. Nên không ngẫu nhiên, trong bốn comment dưới bài
viết này sau khi đăng trên Tia sáng,thì có tới ba ý kiến cho rằng: "Tôi
thật sự không hài lòng về rất nhiều điểm được tác giả đề cập trong bài báo
này. Nếu những người thiếu bản lĩnh khi đọc nó tự nhiên họ hình thành suy
nghĩ rằng dân tộc Việt
Đằng sau câu chuyện so sánh này, dường như còn cho thấy
một xu hướng khi thì "thấp thoáng", khi thì lại "rõ nét",
trong đời sống học thuật của chúng ta hiện nay? Nhân danh tìm kiếm chân lý,
một số nhà khoa học đang có xu hướng lật lại các vấn đề lịch sử với tinh thần
phê phán. Điển hình nhất là việc một số nhà khoa học ở trong cũng như ngoài
nước đang nhân danh lý thuyết về "cộng đồng tưởng tượng" của
Benedict Anderson để "phân tích" lại một loạt các yếu tố văn hóa
dân tộc, từ các huyền thoại về Quốc tổ đến những yếu tố huyền tích về các
nhân vật lịch sử. Theo sự hình dung có phần cực đoan của lý thuyết này, các
căn tính (identity) của một dân tộc không phải là một thực thể tồn tại một cách
hoàn toàn khách quan, tự nhiên mà là những "tạo tác văn hóa có tính nhân
tạo". Nói đơn giản, theo lý thuyết "cộng đồng tưởng tượng", căn
tính dân tộc không phải là một yếu tố được hình thành một cách khách quan,
lịch sử, không phải là kết quả của sự tồn tại của một cộng đồng người trong
những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, mà là các yếu tố được "bịa" ra,
được tưởng tượng nên, dưới sự chi phối của quyền lực. Lô-gic đó cũng giống
như việc coi tính cách của một con người không phải là sản phẩm tự nhiên, kết
quả mối quan hệ giữa con người và hoàn cảnh cộng đồng nó là thành viên, mà là
một cái gì đó mà người ta dựng lên, bịa ra, đến một lúc con người đó tin rằng
đó là tính cách của mình. Và một trong những sản phẩm của sự bịa đặt đó chính
là những huyền thoại, những huyền tích trong lịch sử được kiến tạo nên để làm
công cụ cho việc liên kết dân tộc!
Theo xu hướng ấy, gần đây một số huyền thoại, huyền tích
về sự lập quốc của người Việt Nam, ý thức về nền độc lập, thậm chí cả tinh
thần yêu nước, đã được một số tác giả ở trong và ngoài nước xem xét mổ xẻ, rồi
chỉ ra rằng đó chỉ là những tạo tác được xây dựng dựa trên chất liệu lấy từ
lịch sử, văn hóa Trung Quốc. Tạm chưa bàn đến tính chất cực đoan trong việc
khi tuyệt đối hóa quan hệ giao lưu văn hóa với Trung Quốc, thì lô-gic của các
thứ lập luận này đã ẩn chứa một tinh thần kỳ thị chủng tộc, một thứ chủ nghĩa
thực dân văn hóa kiểu mới. Những người chủ trương thứ lý thuyết này dường như
không quan tâm (hay cố tình không quan tâm) tới sự phân biệt giữa tính quốc
gia và tính nhân loại. Có những giá trị mà khi đạt tới mức độ nào đó đã trở
thành một di sản mang tính nhân loại, mà Kitô giáo là một thí dụ. Vì khó có
thể coi việc nhiều quốc gia trên thế giới tiếp nhận Kitô giáo là đã bị cuốn
vào vòng ảnh hưởng Do thái. Việc người Việt Nam tiếp nhận các tư tưởng, các yếu
tố văn hóa, tôn giáo từ Trung Quốc với tư cách các giá trị mang tính toàn
nhân loại không có nghĩa người Việt Nam không có ý thức về sự phân biệt giữa
người phương nam và người phương bắc, không có ý thức về sự phân biệt giữa
các triều đại phương bắc với các triều đại phương nam. Rõ ràng, từ góc nhìn
khoa học, phía sau lập luận đó là một thứ tinh thần kỳ thị sắc tộc, một thứ
chủ nghĩa thực dân kiểu mới về văn hóa với sự hình dung về "dân tộc
thượng đẳng" và "dân tộc hạ đẳng".
Những vận động trong đời sống học thuật của xã hội hiện
nay đang ngày càng cho thấy các biến chuyển theo hướng dân chủ hóa đời sống
học thuật của chúng ta. Vấn đề là khi các lý thuyết, quan niệm từ nước ngoài
được tiếp thu một cách sống sượng, thiếu tinh thần khách quan khoa học, vận
dụng để phê phán một cách thiếu thiện chí, thì đằng sau một số biểu hiện
tưởng như bình thường, rất có thể ẩn giấu những khuynh hướng tai hại, mà biểu
hiện cao nhất của nó là bôi nhọ, hạ thấp truyền thống văn hóa, phổ biến tâm
lý và thái độ nhược tiểu văn hóa, rồi có thể từng bước tiến tới phủ nhận các
giá trị đương đại.
(Theo Nhân dân) LƯƠNG XUÂN HÀ
|
Thứ Ba, 4 tháng 3, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét