22:10
Vụ án oan “trộm cổ vật”
tại Bắc Giang:
“Nghệ thuật” gán tội của Cơ
quan tố tụng Bắc Giang
Dương Văn Trung nay đã chết vì suy kiệt.
Bức cung, ép cung, nhục hình là những hành vi
bị cấm tuyệt đối vì nó vi phạm pháp luật tố tụng dẫn đến làm sai lệch vụ án,
mất đi tính nghiêm minh của pháp luật, gây ra đau thương, ai oán cho những
người bị bắt, giam, truy tố, buộc tội oan và toàn xã hội. Vụ án “trộm cổ vật”
ở Bắc Giang có thể là một ví dụ điển hình để minh chứng rằng câu nói “phi đả
bất thành cung” là một sự thật mà không ít điều tra viên vẫn đang áp dụng.
Vì đâu nên nỗi?
Như số báo trước chúng tôi đã viết: Nguyễn Quý Đoan bị Công an
Bắc Giang bắt giam từ một tố cáo do hiểu lầm là thủ phạm một vụ lừa đảo chiếc
xe máy. Thế nhưng sau khi bị bắt, Nguyễn Quý Đoan bỗng dưng trở thành thủ
phạm của những vụ trộm tượng nổi đình nổi đám khắp cả nước.
Vậy tại sao Nguyễn Quý Đoan và sau đó là 5 người khác (Phạm Mạnh
Hùng, Dương Văn Trung, Dương Phúc Thịnh, Lê Văn Thương và Phan Hữu Hường) bị
bắt, bị truy tố về tội “trộm cắp tài sản” là những bức tượng có niên đại hàng
trăm năm ở các chùa trên địa bàn Bắc Giang?
Dù câu chuyện bức cung, nhục hình đã được thể hiện khá rõ tại các
phiên tòa xét xử vụ án cách đây hơn 7 năm và lời khai của những bị cáo trước
tòa đã gây sốc nặng cho những người tới nghe phiên xét xử, nhưng ngày
11.11.2013, gặp lại chúng tôi, Nguyễn Quý Đoan vẫn không quên nhắc lại những
gì mà ông đã trải qua: “Sau phiên tòa, tôi đã nhiều lần viết đơn tố cáo bị
bức cung, nhục hình gửi đến Viện KSND tỉnh Bắc Giang và Viện KSNDTC.
Trong đơn, tôi nêu rõ việc đánh đập và ép tôi nhận tội là các
điều tra viên Thân Văn Túc, Hà Văn Quang, Chu Bá Huy, Nguyễn Văn Oanh”.
Là một trong những luật sư tham gia bào chữa cho bị cáo
Phạm Mạnh Hùng, luật sư Hà Đăng (Đoàn LS Hà Nội) mở lại hàng loạt file ghi âm
ông ghi được tại những phiên tòa xét xử mà ông đã tham gia bào chữa.
Khi bị cáo Phạm Mạnh Hùng được hỏi: Anh là Phạm Mạnh Hùng, tức
Chiến phải không? Hùng trả lời: “Thưa HĐXX, từ bé, ngoài tên cha sinh mẹ đẻ
đặt cho là Hùng, tôi không có tên nào khác” -“Tại sao khi khai với CQĐT anh
khai anh còn có tên là Chiến, nhà ở dốc Bưởi?” -“Thưa, vì cái tên Chiến này
mà tôi bị đánh nhiều ngày liền, cứ lột trần, truồng, treo ngược lên cửa sổ để
đánh. Khi điều tra viên đánh chán tay bèn dùng bật lửa đốt cháy lông nách,
lông tay và chỗ kín. Họ chỉ hỏi mỗi câu: “Mày là Hùng, tức Chiến có đúng
không?”.
Những ngày đầu tôi còn tỉnh táo, còn đủ sức trả lời: “Tôi không
biết Chiến là ai cả”. Nhưng rồi, nhiều ngày sau họ cứ treo ngược lên đánh và
đốt nến đau quá, tôi không chịu nổi nữa nên họ bảo gì, tôi là gì thì tôi ừ là
thế. Họ bảo tôi tên Chiến thì tôi nhận tôi tên Chiến. Nhà tôi ở Thượng Đình,
Thanh Xuân nhưng họ bảo tôi có nhà dốc Bưởi thì tôi cũng nhận có nhà dốc
Bưởi..., họ bắt tôi học thuộc lòng lời khai, thế là tôi học thuộc lòng”.
Luật sư Mỹ Hà (Đoàn LS Hà Nội, bào chữa cho bị cáo Dương Văn
Trung (ở Phương Quế, Thường Tín) hỏi bị cáo Dương Phúc Thịnh để đối chứng lời
khai: “Lời khai của anh rất mâu thuẫn với nhau về những lần đi ăn trộm, vậy
tại sao anh khai như vậy?” -“Tôi không hề đi ăn trộm, nhưng bị đánh đau quá
nên nhận bừa và khai lung tung” -“Trước HĐXX, anh khai lại cho rõ tại sao anh
lại khai như vậy?” -“Do tôi bị bắt oan nên uất lắm ạ, tôi vốn là quân nhân
giải ngũ nên về nhà làm nghề cây cảnh, non bộ, không va chạm với ai vì thế
khi bị bắt, bị đánh ngày đầu tôi cố chịu, nhưng đến ngày thứ hai tôi bị đánh
đau quá nên không chịu được và đánh trả.
Thế là kiểm sát viên tên là
Chủ tọa phiên tòa Giáp Văn Hán hỏi Lê Văn Thương: “Bị cáo Lê Văn
Thương khai rất nhiều lần bị đánh, bị ép cung, vậy có gì để chứng minh
không?” -“Dạ có ạ!” -“Bị cáo nói vậy có gì làm bằng chứng?” -“Thưa HĐXX,
trong những bản cung mà bị cáo bị ép cung, tôi có ghi dấu hiệu về việc bị ép
cung.
Nếu bản cung nào bị nhục hình bị tôi ký hiệu về việc nhục hình,
bản cung nào bị áp đặt, tôi có ký hiệu về việc áp đặt... tất cả những ký hiệu
này đều được đánh dấu ở vị trí gần cuối tờ khai, không tin HĐXX cứ mở ra kiểm
tra xem có đúng không ạ”.
Lúc này chủ tọa lật mở hồ sơ gốc tìm những bản cung của Lê
Văn Thương đã đánh dấu ký hiệu và tìm thấy những ký hiệu đúng như lời khai
tại tòa. Không chỉ có Lê Văn Thương, mà một số bị cáo khác có lời khai về
việc bị ép cung đã đánh dấu bằng giấy kẹo hoặc vết máu vào bản cung cũng đã
được HĐXX ghi nhận.
Họ đã bị buộc tội thế nào?
Có lẽ từ những trận đòn nhừ tử dành cho những người bị bắt
giam nên cuối cùng Cơ quan CSĐT - Công an tỉnh Bắc Giang đã ra được bản kết
luận điều tra và sau đó Viện KSND tỉnh Bắc Giang cũng đã ra cáo trạng buộc
tội các bị cáo trên cơ sở kết luận điều tra của cơ quan công an. Cáo trạng do
ông Nguyễn Việt Hùng - Viện trưởng Viện KSND Bắc Giang bấy giờ - đã cáo buộc
như sau:
“Vụ thứ nhất: Khoảng đầu năm 2001, Phan Hữu Hường (xã Liên Ninh,
huyện Thanh Trì, Hà Nội), nghe tin từ các phật tử quê ở huyện Lục Nam, tỉnh
Bắc Giang đến thắp hương tại chùa Thọ Am nói chuyện với Hường về một số pho
tượng cổ ở chùa Khám Lạng-Lục Nam có yểm vàng ở bên trong tượng. Sau đó Hường
đã đi về chùa Khám Lạng với danh nghĩa là thăm chùa, nhưng thực chất là để
trinh sát nắm đường đi lối lại của chùa để thực hiện việc trộm cắp tượng phật.
Sau khi đi trinh sát thực tế về, Hường đã bàn với các tên: Phạm
Mạnh Hùng, sinh năm 1968, đang chấp tác tại chùa Thọ Am; Lê Văn Thương (sinh
năm 1973, xã Duyên Hà, huyện Thanh Trì, ngoại thành Hà Nội) và Nguyễn Quý
Ðoan (xã Ngũ Thái, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh) tổ chức đi trộm cắp
tượng phật tại chùa Khám Lạng, Lục Nam, tỉnh Bắc Giang.
Sau khi bàn bạc thống nhất biết Phạm Mạnh Hùng lái được xe ôtô,
nên Thương đã giao cho Hùng đi thuê ôtô loại 12 chỗ ngồi để làm phương tiện
đi gây án, còn Phan Hữu Hường thì chuẩn bị dụng cụ như một kìm cộng lực, một
bao tải dứa, một thanh sắt xoắn nhọn để phá khóa. Tối ngày 5.6. 2001, Hùng đã
ra bến xe ôtô Văn Ðiển thuê 1 chiếc xe ôtô màu xanh loại 12 chỗ ngồi và tự
lái đến chùa Tranh Khúc chở Hường, Thương Ðoan đi về chùa Khám Lạng, Lục Nam
để trộm cắp tượng.
Khi đến cửa chùa Khám Lạng, bọn chúng đỗ xe ôtô rồi mở cửa chùa
để vào trộm cắp tượng (khi đó cửa chùa không có khóa cửa), cả 4 tên đã vào
chùa lấy 1 pho tượng Di Lặc cao khoảng 70cm, nặng khoảng 30kg bằng gỗ sơn son
thếp vàng có từ thế kỷ 17 cho vào bao tải dứa khiêng ra xe ôtô để đem về.
Trong khi đang thực hiện hành vi phạm tội thì bị động, tên Hường đã ném chiếc
kìm cộng lực cán nhựa đỏ ra phía ruộng ngoài cửa chùa rồi lên xe ôtô đem
tượng về chùa Tranh Khúc, xã Duyên Hà.
Ngay đêm đó, bọn chúng đã cạy nắp yểm tâm ở sau lưng bức tượng để
tìm vàng nhưng không có vàng mà chỉ thấy có một giấy bùa để trong đó. Sáng
hôm sau, bọn chúng gọi cho Nguyễn Thúy Lan ở số nhà 33 phố Hàng Giấy, quận
Hoàn Kiếm, Hà Nội đến để bán cho Lan pho tượng này với giá 3 triệu đồng (do
Thương trực tiếp bán).
Khi bán tượng cho Lan, theo Thương khai là Lan có hỏi Thương về
nguồn gốc pho tượng đó do đâu mà có, Thương nói rõ cho Lan biết là do bọn
Thương mới trộm cắp được tại chùa Khám Lạng, Lục
Sáu vụ trộm sau đó, cáo trạng cũng miêu tả nội dung, cách thức
hành động, phương tiện gây án của những bị cáo giống như vụ thứ nhất, cuối
cùng cáo trạng kết luận những bị cáo này phạm các tội: “Trộm cắp tài sản”;
“tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có”.
“Còn nữa”
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét