15:40
Bí mật về căn cứ của Kilo
Hà Nội
(PetroTimes) - Tàu ngầm kilo Hà Nội đang về gần đến Việt
Giới quân sự vẫn cho
rằng: Ai sở hữu quân cảng
Hãy cùng PetroTimes
tìm hiểu căn cứ mới của "sát thủ Biển Đông" tàu ngầm kilo Hà Nội.
Một góc quân cảng Cam Ranh.
Giới chuyên gia quân
sự đã thừa nhận vị trí của Cam Ranh có tầm ảnh hưởng to lớn tới bản đồ địa –
chiến lược toàn cầu, cho dù họ có đứng ở các chân trời quan điểm nào đi chăng
nữa. Năm 1888, Hải hạm của Nga mang tên "Tráng sĩ” trong chuyến đi vòng
quanh thế giới đã cập cảng Cam Ranh, sau đó, nơi đây đã trở thành quân cảng
của các nước lớn thay nhau đồn trú trong vòng gần 100 năm trở lại đây. Trong
cuộc chiến Nga – Nhật 1905, hơn 100 chiến thuyền thuộc Hạm đội Thái Bình
Dương số 2 của Hải quân Nga Hoàng đã từng tập trung tại Cam Ranh.
Năm 1935, thực dân
Pháp bắt đầu cho xây dựng căn cứ hải quân tại Cam Ranh. Năm 1940, Cam Ranh
rơi vào tay Nhật Bản, trở thành bàn đạp để Nhật Bản tiến đánh
Ngày 18/10/1946, Cam
Ranh là nơi diễn ra cuộc hội kiến giữa Hồ Chủ tịch Hồ Chí Minh và Cao ủy Pháp
DArgenlieu. Cuộc gặp gỡ được tổ chức trên thiết giáp hạm Suffren, có các vị
chỉ huy hải, lục, không quân Pháp và các nhà báo nước ngoài. Trong bữa tiệc
trên chiến hạm Suffren, khi DArgenlieu bóng gió nói: “Thưa ngài Chủ tịch,
ngài thật đang bị đóng trong cái khung”, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mỉm cười và
trả lời: “Nhưng mà ngài Đô đốc biết đấy, chính bức tranh làm nên giá trị cái
khung”. DArgenlieu lại nói: “Chủ tịch thật quen với biển cả, có lẽ xin tặng
Người danh hiệu “Người thủy thủ nhỏ” như quân đội Pháp đã quý mến tặng
Napoleon cái tên “Người đội trưởng nhỏ!”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đáp lại:
“Phải, người thủy thủ nhỏ của Hải quân Việt
Từ năm 1965 đến 1972,
Mỹ đã xây dựng Cam Ranh thành một căn cứ quân sự khổng lồ được coi là “bất
khả xâm phạm” để làm cứ điểm tiếp liệu và khí tài quân sự cho chiến tranh,
đồng thời khống chế hành lang phía tây Thái Bình Dương.
Vào năm 1969, Lyndon
B. Jhonson đã đến thị sát căn cứ này, và đó là chuyến thăm đầu tiên của một
Tổng thống Mỹ khi tới Việt
Năm 1972, người Mỹ trao
lại căn cứ này cho quân đội Sài Gòn và 3 năm sau quân đội nhân dân Việt
2. Chuẩn đô đốc E.I
Prokôpievich, người cuối cùng lên cầu tàu thủy Xakhalin-9 rời Việt Nam năm
2002 trong cương vị Chỉ huy trưởng Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật 922 của Cam
Ranh nhận định, căn cứ quân sự trước đây của Mỹ trên bán đảo Cam Ranh – Khánh
Hòa đã thu hút sự chú ý Liên Xôviết bằng chính vị trí địa lý của nó, xét về
mọi phương diện thì hoàn toàn ưu việt cho việc triển khai một căn cứ hải
quân. Nó cho phép khống chế các eo biển Malaysia và Philippines, có thể tiến
hành trinh sát điện tử Biển Đông, biển Philippines, Đông Hải, thậm chí tới
tận khu vực vịnh Pécxích hay vùng bắc Ấn Độ Dương. Bán đảo Cam Ranh bọc trong
mình hai vịnh Bình Ba và Cam Ranh, nơi không chịu ảnh hưởng của các hiện
tượng thời tiết, có độ lớn và sâu để có thể neo đậu mọi loại chiến hạm và tàu
hộ tống, kể cả tàu sân bay.
Ảnh tư liệu về quân cảng Cam Ranh.
Từ những năm 60 của
thế kỷ trước, Hải quân Liên Xô đã vươn ra biển lớn, bắt đầu tiến hành trực
ban chiến đấu trên các đại dương. Tàu chiến, tàu ngầm, máy bay hải quân được
triển khai trên các đại dương nhằm mục đích bình ổn cục diện chung. Việc mở
rộng quy mô cũng như vùng hoạt động của tàu thuyền và không quân trên biển
yêu cầu phải có mạng lưới hậu cần kỹ thuật hải quân rộng khắp. Vì không có
căn cứ quân sự ở nước ngoài nên Liên Xô đã xây dựng trạm cung ứng vật tư kỹ
thuật trên lãnh thổ các nước có quan hệ thân thiện, đương nhiên Cam Ranh là
một điểm sáng tô son. Cuối năm 1978, nhóm sĩ quan đại diện cho các tổng cục
của Bộ Tư lệnh Hải quân và của Hạm đội Thái Bình Dương đáp máy bay sang Việt
Nam để ngày 30/12 đã thỏa thuận xong và ký biên bản ghi nhớ làm cơ sở đàm
phán xây dựng và cùng khai thác Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật.
Ngày 2/5/1979, Chính
phủ LB CHXHCN Xôviết và Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam đã ký hiệp định về
việc sử dụng Cam Ranh làm Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật cho Hạm đội Thái Bình
Dương của quân đội Liên Xô – trong 25 năm. Ngay ngày hôm đó, thi hành lệnh
của Bộ tổng tham mưu các lực lượng vũ trang Liên Xô và Chỉ thị số 13/1/0143
của Cục Tham mưu hạm đội Thái Bình Dương ngày 28/8/1980 đã thành lập Trạm
cung ứng vật tư kỹ thuật trên bán đảo Cam Ranh mang phiên hiệu đơn vị 31350.
Theo quy định trong
Hiệp định, tại quân cảng Cam Ranh cùng lúc có thể tập trung từ 8-10 tàu chiến
Liên Xô, 4-8 tàu ngầm có khu neo nổi và tối đa 6 tàu hộ tống. Tại sân bay
cùng lúc có thể tiếp nhận từ 14-16 máy bay mang tên lửa, 6-9 máy bay trinh
sát do thám và 2-3 máy bay vận tải. Tùy theo tình hình chiến sự cụ thể, số
lượng máy bay và tàu chiến có thể tăng lên theo thỏa thuận giữa hai Bộ Quốc
phòng Liên Xô và Việt
Tháng 5/1979, các tàu
chiến Liên Xô bắt đầu đi vào hải phận Cam Ranh. Mùa Hè năm đó, tàu ngầm
nguyên tử phóng ngư lôi K-45 đã neo đậu tại Cam Ranh, sau đó ít lâu, các máy
bay hải quân của hạm đội Thái Bình Dương bắt đầu hạ cánh.
Tháng 12/1979, Tổng
tư lệnh Hải quân Liên Xô, Đô đốc X. Gorskốp tới Cam Ranh và ông đã dành hẳn
một ngày để quan sát vịnh biển này, giống y như cách Tổng thống Mỹ Giônxơn đã
tới để ngắm nhìn địa thế “sông núi nước Nam” 10 năm về trước. Phân đội đầu
tiên của Hạm đội Thái Bình Dương gồm 54 người đến đây tháng 4/1980 và tháng 8
năm đó quân số được bổ sung thêm 24 người thuộc bộ phận thông tin liên lạc.
Máy bay ném bom chiến lược của Nga ở căn cứ Cam Ranh.
Bộ Tổng tư lệnh các
lực lượng vũ trang và Chính phủ Liên Xô đã giao cho Trạm cung ứng vật tư kỹ
thuật 922 nhiệm vụ làm giảm nhẹ đáng kể áp lực cho Hạm đội Thái Bình Dương
nói riêng và toàn bộ Hải quân Liên Xô nói chung trong việc cung cấp những dự
trữ cần thiết cho các chiến hạm và tàu hộ tống đang làm nhiệm vụ tại Biển
Đông trong tình hình chiến sự lúc đó của khu vực Thái Bình Dương và Ấn Độ
Dương. Và Cam Ranh trở thành căn cứ hải quân lớn nhất của Liên Xô ở nước
ngoài, căn cứ duy nhất bên bờ Biển Đông, nơi cách cảng gần nhất của Nga 2.500
hải lý.
3. Từ mùa Thu năm
1983 đến tháng 8/1991, hải đoàn cơ động số 17 triển khai tại Cam Ranh, từ
tháng 8/1991 đến tháng 12/1991 được thay thế bằng hải đoàn cơ động số 8 và
sau đó là hải đội tàu hỗn hợp 119. Thời điểm năm 1986, trên sân bay triển
khai trung đoàn không quân hỗn hợp độc lập gồm 4 máy bay Tu-95, 4 chiếc
Tu-142, phi đoàn máy bay Tu-16 khoảng 20 chiếc các loại, phi đoàn MiC25
khoảng 15 chiếc, hai máy bay vận tải An-24 và 3 máy bay lên thẳng Mi-8. Ngoài
ra trung đoàn còn quản lý và chỉ huy căn cứ chống tàu ngầm, tiểu đoàn tên lửa
và tiểu đoàn kỹ thuật.
Tháng 2/1984, theo đề
nghị của phía ViệtNam, Chính phủ Xôviết đã quyết định khôi phục và xây dựng
thêm một loạt công trình tại căn cứ Cam Ranh. Việc xây dựng Cam Ranh bước
sang một giai đoạn mới, chuyển từ hình thức tự hạch toán kinh tế sang hình
thức đấu thầu khoán gọn, bắt đầu giai đoạn xây dựng kiên cố thay cho các kết
cấu lắp ghép tạm thời. N.M Zariphôvich – Phó tổng giám đốc Công ty Xây lắp
Liên Xô tại Việt Nam giai đoạn 1987-1989 đã kể lại trong cuốn “Liên Xô – một
từ không bao giờ quên” (Nguyễn Đình Long dịch) rằng, Cục kỹ thuật xây dựng
nước ngoài thuộc Bộ Quốc phòng Liên Xô, đơn vị có nhiều kinh nghiệm xây dựng
các công trình ở hơn 60 nước trên thế giới đảm nhiệm việc lựa chọn và đưa
chuyên gia đến Cam Ranh. Họ là những chuyên gia tài năng của các đơn vị trong
và ngoài quân đội được các tổ chức Đảng, Đoàn giới thiệu, được chở sang bằng
đường hàng không qua Mátxcơva hay Vlađivôxtốc theo hành trình Mátxcơva –
Tasken – Karachi (đôi khi là Bombay) – Kancútta – Hà Nội – Cam Ranh.
Căn cứ Cam Ranh nhìn từ vệ tinh.
4. Trên cơ sở Hiệp
định ký giữa Liên Xô và Việt
Theo thỏa thuận trong
mục 71 của Hiệp định ký ngày 20/4/1984, các công trình xây dựng xong sẽ bàn
giao cho phía Việt
Có thể thấy rằng, về
cơ bản, các công trình được Liên Xô – Nga xây dựng ở Cam Ranh bao gồm: Khu
nhà ở của Trạm cung ứng vật tư kỹ thuật, trong đó có chỉ huy sở đơn vị 31350
và doanh trại cho quân số biên chế của đơn vị, nhà ăn 250 chỗ, lò bánh mỳ, tổ
hợp tắm hơi – giặt là, CLB, trường phổ thông số 183, 18 tòa nhà ở, kho tổng
hợp lưu giữ và cấp phát vật tư, đội xe (gồm cả xe chuyên dụng); Vùng bến nhỏ;
Bể chứa ngầm thể tích 14.000m3 dùng để chứa nhiên liệu; hai hầm lạnh dung
tích 270 tấn dùng để chứa thực phẩm lưu trữ; 12 kho khung sắt dùng để chứa
các loại vật tư khác nhau; Hai bể lọc giếng khoan, một dùng cho sinh hoạt,
một dùng cho chiến hạm và các tàu hộ tống; Trạm phát điện trung tâm công suất
24.000kW cấp điện cho tất cả các công trình thuộc khu quân sự và của Việt Nam
trên bán đảo…
Khi từ biệt Cam Ranh,
người Nga đã chở đi 588 người, 819 tấn hàng trong đó có 50 chiếc ôtô và xe
chuyên dụng, 190 tấn dầu diezel, 133 tấn dầu mỡ các loại, vũ khí đạn dược
cũng như tài liệu lưu trữ và tài liệu mật, bằng cả đường hàng không và đường
biển. Đồng thời, người Nga bàn giao cho phía ViệtNam57 tòa nhà và công trình
thuộc căn cứ, 85km đường dây tải điện lưới, 62km đường điện cáp, 25km công
trình ngầm, 250m cầu cảng, sân bay và hệ thống quản lý kho.
Những người Nga đã
sống và làm việc như thế tại Cam Ranh. U.X Ivanôvích, Đại tá quân dự bị, cựu
binh Cam Ranh kể lại rằng, cho đến tận năm 1992, khi Liên Xô tan rã, thủ tục
ra vào khu quân sự vẫn do phía Việt
Căn cứ hải quân Cam
Ranh ngày nay được Việt
(Theo Năng
lượng mới)
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét