10:29
Trung Quốc dùng thêm "luận điệu" nào để ngụy
biện?
Ngoài những
luận điệu mà chúng ta đã biết, Trung Quốc đã ngụy tạo, đánh tráo khái niệm
như thế nào về Công ước Luật biển 1982?
Bằng việc làm rõ 2 khái niệm “quốc gia quần
đảo” và “khái niệm quần đảo”, TS Trần Công Trục, Nguyên Trưởng Ban Biên giới
Chính phủ, lại một lần nữa vạch trần sự ngụy biện của yêu sách đường lưỡi bò
mà Trung Quốc vẫn đang tìm mọi cách để hiện thực hóa nó.
Thưa ông, đường lưỡi bò vô lý, vẫn đang
được Trung Quốc tìm cách hiện thực hóa bằng mọi giá. Ngoài việc “ỷ thế nước
lớn” quan điểm vùng nước lịch sử vô lý, Trung Quốc còn dựa vào “lý lẽ” nào?
Như các bạn đã biết, Trung Quốc đang tìm mọi cách để hiện thực
hóa “đường lưỡi bò” trên mọi phương diện. Họ cho rằng 80% diện tích Biển Đông
trong phạm vi “đường lưỡi bò” là vùng nước lịch sử của họ. Nhưng “lập luận”
đó bị thế giới lên án, phản đối nên họ vận dụng chế độ quốc gia quần đảo đối
với Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa của Việt
Vậy chế độ pháp lý của quốc gia quần
đảo và chế độ pháp lý về quần đảo trong Công ước Luật Biển 1982 có gì khác
nhau, thưa ông?
Công ước Luật Biển năm 1982 đã dành một phần (Phần IV),
gồm các điều 46, 47, 48, 49, 50, 51, 52, 53, 54 để quy định về phạm vi
và chế độ pháp lý của Quốc gia quần đảo và Quần đảo. Theo đó, Quốc gia quần
đảo là Quốc gia hoàn toàn được cấu thành bởi một hay nhiều quần đảo và có thể
bao gồm một số đảo khác nữa. Còn Quần đảo là một nhóm các đảo, kể cả các bộ
phận của các đảo , các vùng nước nối giữa và các thành phần tự nhiên khác có
liên quan với nhau chặt chẽ đến mức tạo thành một thể thống nhất về địa lý,
kinh tế và chính trị, hay được coi như thế về mặt lịch sử.
Theo ông, nội dung rõ nhất, quan trọng
nhất nằm ở điều nào của Công ước Luật Biển?
Nôi dung quan trọng nhất là tại Điều 47, Công ước quy định
về Đường cơ sở quần đảo: Quốc gia quần đảo có thể vạch các đường cơ sở thẳng
của quần đảo nối các điểm ngoài cùng của các đảo xa nhất và các bãi đá nổi xa
nhất của quần đảo, với điều kiện là tuyến các đường cơ sở này bao lấy các đảo
chủ yếu và xác lập một khu vực mà tỷ lệ diện tích nước so với đất, kể cả vành
đai san hô, phải ở giữa tỷ số 1/1 và 9/1. Chiều dài của các đường cơ sở này
không vượt quá 100 hải lý; hoặc có thể có chiều dài tối đa là 125 hải
lý, nếu có 3% tổng số đường cơ sở bao quanh một quần đảo có chiếu dài lớn hơn
100 hải lý; tuyến các đường cơ sở này không được tách xa rõ rệt đường bao quanh
quần đảo.
Các đường cơ sở này cũng không được kéo đến hay xuất phát
từ các bãi cạn lúc nổi, lúc chìm, trừ trường hợp trên đó có xây các đèn biển
hay các thiết bị tương tự thường xuyên nhô trên mặt nước hoặc trừ trường hợp
toàn bộ hay một phần bãi cạn ở cách hòn đảo gần nhất một khoảng cách không
vượt quá chiều rộng lãnh hải…
Với những nội dung này thì rõ ràng Công ước chỉ quy định cách vạch đường cơ sở thẳng cho Quốc gia quần đảo, chứ không quy định cách vạch đường cơ sở cho các quần đảo không phải là quốc gia quần đảo. Điều đó được hiểu là cách vạch đường cơ sở tại các quần đảo thuộc chủ quyền của quốc gia ven biển ở cách quốc gia đó một khoảng cách vượt quá chiều rộng lãnh hải thì sẽ phải tuân thủ các quy định tại Phần VIII, Điều 121: Chế độ các đảo.
Như vậy, quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo
Trường Sa của việt Nam cũng theo quy chế này đúng không, thưa ông?
Đúng vậy, Quần đảo Hoàng Sa và Quần đảo Trường Sa của Việt
Nam cũng phải tuân thủ quy định này của Công ước để vạch đường cơ sở và
xác định phạm vi các vùng biển và thềm lục địa của chúng. Điều này là cơ sở
để chúng ta xác định phạm vi, đường cơ sở, thêm lục địa, bãi đá ngầm quần đảo
Trường Sa của chúng ta đã tuân thủ đúng, đầy đủ Công ước Luật Biển 1982.
Xin cảm ơn ông!
(Theo Infonet.vn) Hồng
Chuyên thực hiện
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét