VỀ BỨC THƯ CT HỒ CHÍ MINH GỬI TT HARRY TRUMAN
Lá thư ông Trương Tấn Sang đưa cho Tổng thống Obama tại cuộc gặp ngày 25/7.
Trong cuộc gặp với Tổng thống Hoa Kỳ Barack
Obama ngày 25/7, ông Trương Tấn Sang đã đưa cho ông Obama một bản sao của lá
thư mà cố Chủ tịch Hồ Chí Minh đã gửi cho Tổng
thống Hoa Kỳ lúc đó, ông Harry Truman hồi năm 1946 để xin Hoa Kỳ giúp đỡ để
bảo vệ nền độc lập.
Nội dung thư:
"Hà Nội 28/2/1946
Chủ tịch Hồ Chí Minh, Việt Nam Dân chủ cộng hòa,
Hà Nội
Gửi đến ngài Tổng thống Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ, Washington
DC
Thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam, tôi xin
thông báo cho ngài rằng trong quá trình đàm thoại giữa Chính phủ Việt Nam và
các đại diện của Pháp, Pháp đã đòi hỏi sự ly khai của Nam Bộ và sự trở lại
của quân đội Pháp tại Hà Nội.
Trong khi đó người dân và quân đội Pháp đang
hoạt động tích cực chuẩn bị cho một cuộc đảo chính ở Hà Nội và gây hấn quân
sự.
Vì vậy, đích thân tôi đưa ra lời yêu cầu tha
thiết nhất tới Ngài và nhân dân Hoa Kỳ, hãy can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ cho
nền độc lập của chúng tôi, đồng thời giúp cho các cuộc đàm phán tôn trọng các
nguyên tắc của Điều lệ Đại Tây Dương và San
Francisco hơn.
Kính thư,
Hồ Chí Minh"
******
Trong cuộc gặp tại Nhà trắng giữa Tổng thống
Barack Obama và Chủ tịch Trương Tấn Sang, bức thư Chủ tịch HCM gửi Tổng thống
Harry Truman lại được nhắc đến như bằng chứng cho sự thiết lập sơ khởi trong
bang giao giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.
Thử nhìn lại tiến trình này…
Khi Hiến chương
Đại Tây Dương công bố hè 1941, ông HCM đã nhìn thấy vận hội cho công cuộc
tranh đấu giành độc lập từ thực dân Pháp. Hiến chương ra đời với sự đồng
thuận của Thủ tướng Anh Winston Churchill và Tổng thống Mỹ Franklin
D. Roosevelt đã nêu rõ sự tôn trọng chủ
quyền quốc gia cũng như sự tái lập nền độc lập đối với các quốc gia bị tước
chủ quyền. Mỹ là một trong những quốc gia đầu tiên mà ông HCM nghĩ đến như
một sự trợ giúp cần thiết thời điểm đó. Và cơ hội đầu tiên đã xuất hiện vào
năm 1944, khi một máy bay Mỹ bị tai nạn trên bầu trời Cao Bằng. Viên trung úy
phi công Mỹ William Shaw được Việt Minh cứu sống và lập tức đưa đi khỏi địa
điểm bị nạn. Ngay hôm sau, quân Pháp vây kín khu vực, tháo máy bay và tìm
viên phi công. Tiếp theo Pháp là Nhật. Tuy nhiên, Shaw đã được đưa đến thôn
Lũng Bó, vào lúc ông HCM chuẩn bị đi Côn Minh (Trung Quốc). Chủ tịch HCM lệnh
cho tiểu đội du kích của Lê Quảng Ba bảo vệ Shaw và sau đó yêu cầu đưa Shaw
đến gặp. Cuối buổi nói chuyện, ông HCM hứa trả Shaw cho quân Đồng minh tại
Côn Minh. Trước khi chia tay, ông HCM yêu cầu Shaw giao lại cho thượng cấp
bản tiếng Anh của “Cương lĩnh Mặt trận Việt Minh”.
Cuối năm 1944,
ông HCM sang Côn Minh. Shaw được đi theo để được trở về Bộ tư lệnh không quân
Mỹ tại đó. Khi đoàn đến Thiên Bảo, huyện trưởng Tĩnh Tây báo cho Trần Bảo
Phương (tướng của Tưởng Giới Thạch); và ông HCM được yêu cầu giao Shaw cho
họ. Đây là một âm mưu “cướp công” – nói theo tác giả Mai Văn Bộ trong quyển
Con đường vạn dặm của Hồ Chí Minh. Tại Côn Minh thời điểm trên, ngoài tổng
hành dinh Không đoàn 14 Hoa Kỳ dưới sự chỉ huy của tướng Claire Chennault,
còn có Tổng cục chiến lược vụ (OSS – tiền thân Cơ quan tình báo Mỹ CIA) và Cơ
quan cứu trợ không quân (AGAS). Khi đến Côn Minh, ông HCM liên lạc ngay với
AGAS. Khi nghe thuộc cấp kể về việc Việt Minh cứu Shaw, chỉ huy AGAS Charles
Fenn lập tức đồng ý gặp ông HCM. Sau cuộc tiếp xúc ngày 17-3-1945, Charles
Fenn và ông HCM lần thứ hai vào ngày 20-3-1945 và sắp xếp cuộc tiếp xúc với
Claire Chennault.
Cần nhấn mạnh
rằng, trong cục diện chính trị thập niên 1940, khi Đông Nam Á trở thành một
trong những điểm nóng nhất thế giới, Mỹ bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến Đông
Dương. Tướng William Donovan – chỉ huy trưởng OSS – đã bí mật cử hai viên
chức tình báo sang khu vực: đại tá John Whitaker và trung tá Archimedes Patti
nhằm nghiên cứu tình hình thực tế. Đến Côn Minh ngày 14-4-1945, Archimedes
Patti nhanh chóng nhận ra sự phức tạp của bàn cờ Đông Dương, khi quân Nhật có
khả năng tấn công lên Tây Nam Trung Quốc, khi Pháp thất bại hết trận này đến
trận khác, khi quân Tưởng tiếp tục là thế cờ khó giải trong cục diện chính
trị Trung Quốc…
Archimedes
Patti cũng được nghe về sự lớn mạnh của Việt Minh. Sau khi nghe báo cáo về
việc Việt Minh cứu Shaw cũng như các cuộc tiếp xúc của ông HCM với Claire
Chennault và Charles Fenn, Patti quyết định trực tiếp gặp Chủ tịch Hồ. Chiều
27-4-1945, Patti đến quán trà tại ngoại ô Tĩnh Tây, chờ Vương Minh Phương
(người móc nối liên lạc giữa Việt Minh và tình báo Mỹ). Chập choạng tối, ông
Vương đến, dẫn Patti đến ngôi làng nhỏ cách Tĩnh Tây khoảng 10km. Trong cuộc
gặp, Chủ tịch Hồ đi thẳng vào vấn đề: “Việc hợp tác với Đồng minh chống Nhật
trên chiến trường Đông Dương mà chúng tôi đã làm, trên thực tế, chứng tỏ rằng
chúng tôi sẵn sàng hợp tác với Chính phủ Mỹ”. Patti cũng kể rằng tên tuổi của
Chủ tịch Hồ thật ra không xa lạ gì với chính giới Mỹ, từng được nhắc đến
trong các tài liệu Bộ ngoại giao Hoa Kỳ…
Về yêu cầu trợ
giúp, ông HCM nói: “Nếu Mỹ sắp xếp được với Đồng minh cung cấp những thiết bị
liên lạc và một số vũ khí nhẹ, đủ để trang bị cho một đơn vị nhỏ và phái
người huấn luyện việc sử dụng các vũ khí đó, chắc rằng tình hình sẽ thay
đổi”. Một trong những điểm mấu chốt cuối cùng trong đợt liên lạc này là sự
thỏa thuận cho tình báo Đồng minh vào căn cứ Việt Minh. Ngày 15-4-1945, nhóm
tình báo Đồng minh được đưa vào căn cứ Việt Minh. Ông HCM dặn ông Cao Hồng
Lĩnh và Quốc Văn: “Đây là đám Đồng minh nói là chống phát xít, ngoài việc
chúng nắm tình hình Nhật, đồng thời cũng nắm tình hình của ta. Đây là nhóm
tình báo chuyên nghiệp, ở Đông Dương đã lâu. Đã cho chúng vào rồi thì trong
quan hệ hàng ngày nên xử trí như thế nào cho được việc của họ và cũng có lợi
cho ta. Ba phương châm các chú phải nhớ để giải quyết mọi công việc: Thứ nhất
là làm gì có lợi cho hợp tác với Đồng minh, không có hại cho công việc của
ta. Thứ hai là không từ chối một việc gì có ích chung nhưng cũng không hứa
hẹn một điều gì không làm được. Thứ ba là nên khôn khéo đối xử, tìm hiểu hoàn
cảnh cụ thể từng người, linh hoạt giải quyết mọi công việc để tranh thủ họ”.
Đầu tháng
5-1945, Chủ tịch Hồ quyết định chuyển căn cứ về xuôi. Trước khi đi, ông HCM
gửi thư và hai tài liệu khác cho Patti, nhờ đại diện Mỹ chuyển lên Liên Hiệp
Quốc, kêu gọi cộng đồng quốc tế ủng hộ cuộc chiến giành độc lập dân tộc của
nhân dân Việt Nam. Cuối tháng 5-1945, ông HCM gửi tiếp thư cho Patti, thông
báo việc Nhật mở rộng công trình công sự tại Cao Bằng và nhắc Patti chuyển
hai văn kiện đến San Francisco.
Vấn đề hợp tác tình báo đã được cụ thể hóa bằng việc toán tình báo Con nai do
thiếu tá tình báo Mỹ Allison Thomas nhảy dù xuống Tân Trào giữa tháng 7-1945.
Tiếp xúc Thomas, ông HCM một lần nữa khẳng định Mặt trận Việt Minh là tập hợp
các đảng chính trị được tổ chức với mục đích duy nhất là đấu tranh cho tự do
dân tộc. Ngày 25-7-1945, ông HCM yêu cầu Thomas nhờ trung gian Mỹ báo cho
Pháp biết mình có thể nói chuyện với đại diện Pháp tại Côn Minh hoặc Bắc Kỳ.
Yêu cầu này được Thomas chuyển cho Bộ chỉ huy AGAS ở Côn Minh.
Đầu tháng
8-1945, ông HCM chọn 100 du kích để biệt đội Con nai huấn luyện sử dụng vũ
khí. Ngày 6-8-1945, nhờ điện đài Thomas, ông HCM biết tin Mỹ thả bom nguyên
tử xuống Hiroshima
(Nhật). Chủ tịch Hồ Chí Minh cấp tốc hội ý Ban thường vụ Trung ương, quyết
định tổ chức tổng khởi nghĩa. Phần mình, người Mỹ bắt đầu thay đổi chiến lược
cho cục diện Đông Dương. Chiều 25-8-1945, Chủ tịch Hồ về đến Hà Nội. Trước đó
ba ngày, phái bộ Mỹ do Patti dẫn đầu đã có mặt tại Hà Nội. Trong Vietnam – a history, tác giả Stanley Karnow
thuật: Tháng 7-1945, trước khi Mỹ thả bom nguyên tử xuống Nhật, các nhà lãnh
đạo Đồng minh đã họp tại Potsdam (ngoại ô Berlin, Đức). Họ lập
kế hoạch giải giới quân Nhật tại Việt Nam đồng thời ủng hộ Pháp tại mặt
trận Đông Dương.
Tối 30-9-1945,
trong lần gặp cuối cùng với Patti, Chủ tịch Hồ khẳng định: “Nếu người Pháp cố
tình quay trở lại Việt Nam, như là những tên thực dân đế quốc bóc lột, tàn
sát và giết hại đồng bào tôi, thì tôi dám khẳng định với họ và thế giới rằng
đất nước Việt Nam có thể biến thành tro bụi nhưng chính sách của Chính phủ
tôi sẽ là một chính sách tiêu thổ kháng chiến đến cùng!”...
Tài liệu
1- Con đường
vạn dặm của Hồ Chí Minh, Mai Văn Bộ, NXB Trẻ TP. HCM, 2004
2- Tư tưởng Hồ
Chí Minh về ngoại giao, Vũ Dương Huân, NXB Thanh Niên, 2005
3- Ho Chi Minh,
William J. Duiker, NXB Hyperion, 2000
4- Choosing
War: The Lost Chance for Peace and the Escalation of the Vietnam War, Fredrik
Logevall, NXB University
of California
Press, 1999
5- Vietnam
– a history, Stanley Karnow, NXB Penguin Books, 1997
Theo CS4S
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét