Nghĩa vụ bảo quản chứng cứ trong vụ án
hình sự
Cập
nhật lúc 09:45
Nghĩa vụ bảo quản chứng cứ được xác lập
để bảo vệ quyền được xét xử đúng quy trình hợp lý và công bằng dưới Tu chính
án thứ 6 và 14 của Hiến pháp.
Tuy
vậy, lực lượng chức năng không cần bảo quản mọi chứng cứ thu thập được. Nghĩa
vụ bảo quản chỉ áp dụng với chứng cứ được cho là có thể đóng vai trò lớn
trong công tác bào chữa, tức chứng cứ có hai đặc điểm là "mấu chốt"
và "có thể gỡ tội". Theo đó, chứng cứ mấu chốt là chứng cứ quan trọng
liên quan trực tiếp tới các tình tiết trong vụ án, chứng cứ có thể gỡ tội là
chứng cứ có lợi cho bị cáo.
Chứng
cứ ngoại phạm gần như luôn được coi là chứng cứ mấu chốt và có thể gỡ tội,
bao gồm lời khai nhân chứng cho thấy bị cáo không ở tại hiện trường, hoặc
chứng cứ pháp y (ví dụ ADN) cho thấy bị cáo không thể thực hiện tội phạm...
Các
chứng cứ mấu chốt và có thể gỡ tội khác còn bao gồm:
-
Chứng cứ thu thập được tại hiện trường vụ án: Các tiểu bang đều có quy định
riêng về việc thu thập và bảo quản chứng cứ tại hiện trường như hung khí, mẫu
máu, và ảnh chụp hiện trường.
-
Băng ghi âm ghi hình lời khai của nhân chứng hoặc bị cáo.
-
Ghi chép của cảnh sát, điều tra viên: hầu hết các bang sẽ yêu cầu cảnh sát và
điều tra viên bảo quản giấy tờ ghi chép trong quá trình thẩm vấn. Nếu những
bản ghi chép này chứa đựng thông tin gỡ tội, thông tin này phải được chuyển
cho bên bào chữa.
-
Cuộc gọi khẩn cấp: Lực lượng chức năng thường phải lưu giữ cuộc gọi 911 hoặc
biên bản ghi nội dung cuộc gọi.
Dù
là cơ quan thu thập hầu hết các chứng cứ trong vụ án hình sự, cảnh sát không
phải là phía duy nhất có nghĩa vụ bảo quản. Nghĩa vụ này còn mở rộng bao gồm
điều tra viên, nhân viên hành chính, pháp y của cơ quan điều tra, và công tố
viên...
Nghĩa
vụ bảo quản không áp dụng đối với cá nhân không làm việc cho nhà nước và tổ
chức tư nhân, trừ phi giữa họ và cơ quan chấp pháp có quan hệ chính thức. Ví
dụ, nếu công tố viên thuê phòng thí nghiệm ADN tư nhân để giám định mẫu máu
thu từ hiện trường, nơi này cũng phải bảo vệ và lưu giữ vật chứng cùng kết
quả giám định.
Nếu
chứng cứ bị phá hủy hoặc thất lạc, bị cáo phải có trách nhiệm chứng minh hai
điều: cơ quan chức năng đã vi phạm nghĩa vụ bảo quản, đồng thời vi phạm này
ảnh hưởng tới quyền được xét xử công bằng và theo trình tự hợp lý của bị cáo.
Nói theo cách khác, bị cáo phải chứng minh cơ quan chức năng đã có "ác
ý" khi để mất chứng cứ mấu chốt và có thể gỡ tội.
Chiếc thớt và con dao là hai vật chứng quan trọng nhất
lại được cơ quan điều tra tiêu hủy rồi mua chiếc khác thay thế
Tuy
nhiên, rất khó để chứng minh yếu tố "ác ý" của cơ quan chức năng vì
đây không đơn thuần là sự vô ý hoặc cẩu thả khi bảo quản vật chứng. Bị cáo
phải chứng minh được cơ quan chức năng đã cố ý lừa dối. Ví dụ, nếu cơ quan
chức năng không tuân thủ quy trình tiêu chuẩn dẫn tới làm hỏng hoặc thất lạc
chứng cứ, tòa án có thể từ đó suy đoán ác ý. Một trường hợp khác là khi cảnh
sát vứt mẫu vân tay đã thu thập, dù chứng cứ này cho thấy một nghi phạm khác
đã có thể gây án.
Để
chứng minh tính mấu chốt, bị cáo cần cho thấy vật chứng bị phá hủy không thể
được thay thế, đồng thời trước khi phá hủy vật chứng, lực lượng chấp pháp vốn
dĩ có cơ sở để tin rằng vật chứng này có thể có lợi cho bị cáo. Ví dụ, nếu cơ
quan chức năng thường lưu giữ mẫu vân tay lạ trong các vụ án trước, nhưng
trong vụ án lại đem phá hủy, điều này có thể cho thấy vật chứng bị hủy có
tính mấu chốt. Tương tự, nếu cơ quan chức năng sử dụng, hoặc có ý định sử
dụng một vật chứng nào đó, điều này cũng là dấu hiệu cho thấy cơ quan chức
năng nhận ra tầm quan trọng của vật chứng trên.
Nếu
phát hiện cơ quan công tố đã vi phạm nghĩa vụ bảo quản chứng cứ, bị cáo có
thể chọn một số biện pháp khắc phục như yêu cầu tòa án loại bỏ chứng cứ liên
quan khỏi hồ sơ, hạn chế hoặc loại bỏ lời khai về vật chứng thất lạc, hoặc
bãi bỏ cáo trạng. Nếu sau khi bị kết tội mới phát hiện việc thất lạc vật
chứng, bị cáo cũng có thể kháng cáo yêu cầu hủy án để tái thẩm.
Quốc Đạt (Theo Nolo,
Justia)
|
Chủ Nhật, 24 tháng 5, 2020
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét