Cảnh
báo tham nhũng từ ODA
Cập nhật lúc 14:32
Nghi án tham nhũng do Nhật Bản phát
hiện dự án đường sắt ở công ty tư vấn JTC một lần nữa làm dấy lên sự quan tâm
của công luận về những yêu cầu cấp bách đổi mới từ thể chế, bộ máy thực hiện
ODA, thay đổi tư duy về ODA và ngăn chặn lạm dụng ODA cho lợi ích nhóm bất
chính.
Nam không cần ODA nữa và trở thành một quốc gia tài trợ ODA trong tương
lai xa, khi Việt Nam trở thành một nền kinh tế. Từ năm 1993
Việt Nam đã phá vỡ được thế bao vây, cấm vận, và bắt đầu tiếp nhận sự
hỗ trợ phát triển chính thức, gọi tắt theo tiếng Anh là ODA. Đến nay sau hơn
20 năm, chúng ta đã thu hút được hơn 80 tỷ USD cam kết, giải ngân được 38 tỷ
USD (hiện còn trên 20 tỷ USD chưa được giải ngân), qua đó đóng góp khoảng 30%
vốn đầu tư công và đã góp phần tích cực vào cải thiện kết cấu hạ tầng và công
trình phúc lợi xã hội. Song bên cạnh những lợi ích này là những mặt tiêu cực
không nhỏ của vấn đề sử dụng vốn ODA, trong đó, việc Nhật Bản phát hiện vụ
tham nhũng của công ty PCI với Huỳnh Ngọc Sỹ, vụ PMU 18, và vụ việc liên quan
tới công ty JTC gần đây mới chỉ là những phần nổi ít ỏi được phát hiện của
tảng băng chìm chưa được làm rõ.
ODA không phải khi nào cũng “ưu đãi”
Vốn ODA chủ yếu là vốn tín dụng, hoàn toàn không phải là
viện trợ không hoàn lại hay “tiền chùa” như vẫn bị cố ý hiểu lầm trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ và dân chúng. Sau khi Việt
Mặt khác, những điều kiện của bên tài trợ các dự án ODA
hầu như không được công khai đề cập đến. Nguyên nhân là ngoài vấn đề hạn chế
nhận thức về ODA còn có những sự tế nhị trong quan hệ quốc tế. Cho đến nay
cũng chưa có công trình nghiên cứu khoa học và quy trình thực hiện ODA ở Việt
Bất cập trong quản lý vốn ODA ở Việt Nam
Mặc dù đã liên tục tiến hành đầu tư công từ khi thành lập
nước đến nay, nước ta vẫn chưa ban hành Luật Đầu tư công, vai trò giám sát
của Quốc hội và các cơ quan dân cử về đầu tư công nói chung và đầu tư sử dụng
vốn ODA nói riêng chưa được quy định rõ ràng. Sự chậm trễ này là một
khiếm khuyết không nhỏ trong công tác quản lý nhà nước.
Chính phủ quản lý ODA bằng nghị định, cho đến nay đã ban
hành 5 Nghị định về ODA qua các thời kỳ, song vai tò của thanh tra chưa được
đề cao và thực hiện đúng mức. Vai trò phản biện, giám sát độc lập trong quy
trình thực hiện ODA chưa được quy định, đặc biệt là vai trò giám sát của tổ
chức quần chúng và báo chí.
Điều nổi bật trong thực hiện ODA là tính phức tạp của quy
trình mang nặng tính “xin-cho” và sự thiếu công khai, minh bạch về các dự án,
các điều kiện, các tiêu chí cụ thể trong quá trình phân bổ. Trách nhiệm hoàn vốn,
trả nợ không được tính toán kỹ lưỡng và trình duyệt khi thông qua đề án.
Do nhu cầu đầu tư phát triển về kết cấu hạ tầng nói chung và
ở các tỉnh rất lớn trong khi nguồn cung lại có giới hạn nên việc “chạy dự án”
đã sản sinh ra một đội “cò dự án” chuyên nghiệp với các mối quan hệ thân quen
rất phức tạp. Đã hình thành những “nhóm lợi ích” bất chính ăn bám vào ODA ở
cấp trung ương và địa phương.
Người ta đã nói đến “ma trận” thực hiện ODA, xin được dự
án, thực hiện dự án, huy động vốn đối ứng, giải phóng mặt bằng v.v. mỗi khâu
đều phát sinh nhiều vấn đề có thể gây chậm trễ. Do quy trình không công khai
nên khâu chọn thầu, đấu thầu chỉ mang tính hình thức, một số công ty mặc
nhiên được chỉ định thực hiện các công trình về cầu, về đường, trong đó có
không ít những công ty sân sau, thân quen. Hệ quả là sự bắt tay nhau giữa thi
công-giám sát-nghiệm thu dẫn đến giá thành công trình bị đội lên rất cao trong
khi chất lượng và tuổi thọ công trình rất thấp. Một ví dụ đặc trưng điển hình
cho tình trạng trên xảy ra gần đây được dư luận quan tâm rộng rãi, đó là vụ
Cầu treo Chu Va đổ gây chết người, thực tế cũng là một công trình ODA trong
đó cơ quan thực hiện do con rể của quan chức đầu tỉnh thực hiện!
Kết luận
Đã đến lúc Việt Nam phải có sự đổi mới tư duy về huy động
và sử dụng ODA, có sự chọn lọc chặt chẽ hơn trong sử dụng nguồn vốn này và
ban hành Luật Đầu tư công, trong đó có quy định chặt chẽ về trách nhiệm quy
trình, thực hiện trách nhiệm giải trình, công khai minh bạch khi sử dụng
nguồn vốn này.
Cần có một chương riêng về vốn ODA trong Luật Đầu tư công
và Luật Quản lý nợ công, trong đó quy định rõ các tiêu chí để chấp nhận vốn ODA,
thực hiện công khai minh bạch toàn bộ số vốn, dự án ODA, công bố rõ quy trình
phân bổ vốn và dự án ODA với các tiêu chí rõ ràng, giảm tối đa cơ chế
“xin-cho”. Quy định rõ trách nhiệm cá nhân về từng dự án đồng thời công bố
công khai tên những người chịu trách nhiệm; quy định có phản biện độc lập về
dự án, trong đó phân tích rõ tác động kinh tế-xã hội của dự án, khả năng thu
hồi vốn để trả nợ vốn vay; tổ chức việc giám sát của tổ chức quần chúng, hiệp
hội chuyên ngành trong quá trình thực thi dự án.
Cũng đã đến lúc cần có một công trình nghiên cứu độc lập
về các khía cạnh liên quan đến ODA nói chung và của từng nước nói riêng, chỉ
ra những nhóm lợi ích liên quan đến ODA ở nước tài trợ và trong nước, các mặt
lợi và bất lợi của ODA, từ đó đề xuất chiến lược sử dụng có chọn lọc ODA theo
lộ trình giảm dần, tiến đến Việt phát triển GDP/người vượt 12.000 USD.
Lê Đăng Doanh/ Theo Tia
sáng
|
Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2014
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét