10:25
Góp ý xây dựng Hiến pháp
Không thể chấp nhận quan
điểm “phi chính trị hoá Quân đội”
QĐND - Trong tham gia Dự thảo
sửa đổi Hiến pháp năm 1992, có người đưa ra quan điểm “phi chính trị hóa quân
đội”, yêu cầu “quân đội đứng ngoài chính trị”, cho rằng “quân đội là để bảo
vệ nhân dân, bảo vệ Tổ quốc, không phải bảo vệ bất cứ một đảng phái hay một
thể chế chính trị nào”. Thực chất của quan điểm đó là gì và vì sao không thể
chấp nhận?
Có thể nói, người đưa ra quan điểm nói trên chưa nghiên cứu kỹ về lý
luận cũng như thực tiễn tổ chức và hoạt động của quân đội; chưa hiểu rõ ngọn
nguồn của quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” xuất hiện như thế nào và với
mục đích gì; nhất là chưa am hiểu sâu sắc về bản chất quân đội kiểu mới của
Quân đội nhân dân Việt Nam.
Về bản chất, quân đội bao giờ cũng là công cụ bạo lực của một giai cấp,
Nhà nước, đảng chính trị để tiến hành đấu tranh vũ trang nhằm thực hiện mục
đích chính trị nhất định. Quân đội có bổn phận bảo vệ đảng và thể chế chính
trị tổ chức, nuôi dưỡng và lãnh đạo, chỉ huy quân đội. Khi lợi ích của giai
cấp, Nhà nước, đảng chính trị thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động
thì quân đội đồng thời bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ nhân dân. Khi quan hệ lợi ích
đó mâu thuẫn gay gắt và không thể điều hòa, nhà nước của các giai cấp bóc lột
sử dụng quân đội để trấn áp sự phản kháng của nhân dân, thậm chí có lúc đứng
về phía quân xâm lược để đàn áp phong trào yêu nước.
Quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” thường xuất hiện ở những nền
chính trị có cấu trúc đa đảng đối lập, nhất là khi sự tranh giành quyền lực
giữa các đảng phái chính trị diễn ra gay gắt, dẫn đến khủng hoảng chính trị.
Về thực chất, những người đưa ra quan điểm đó muốn quân đội đứng ngoài cuộc
đấu tranh của các đảng phái chính trị nhằm giành quyền kiểm soát các cơ quan
quyền lực Nhà nước, nhưng trong thực tế không có quân đội đứng ngoài chính
trị. Trong cuốn “Đảng phái và chính trị ở Hoa Kỳ”, nhà nghiên cứu chính trị
Mỹ Clinton Rossiter đã phân tích sâu sắc sự chia rẽ, tranh giành quyền lực
dẫn đến những xung đột chính trị giữa Đảng Dân chủ và Đảng Cộng hòa, coi đó
là một đặc trưng của chính trường Mỹ. Dấu ấn trong bốn năm đầu của Tổng
thống B.Ô-ba-ma chính là những đối đầu giữa hai đảng ở quốc hội hơn là những
đạo luật và quyết sách được thông qua. Hai năm cuối trong nhiệm kỳ đầu của
B.Ô-ba-ma, chính quyền gần như tê liệt bởi đảng Cộng hòa nắm đa số ở Hạ viện
đã phủ quyết hầu hết các quyết sách của Tổng thống. Trong bối cảnh đó, nhiều
tướng lĩnh và chính khách đã kêu gọi “quân đội đứng ngoài chính trị”, nhưng
trong thực tế cả hai đảng đều ra sức tranh giành sự ủng hộ về chính trị của
quân đội.
Ở Thái Lan, mặc dù nhiều lần các chính khách yêu cầu “quân đội đứng
ngoài chính trị”, có lúc cả Bộ trưởng Bộ Quốc phòng cam kết “quân đội không
can dự vào chính trường”, thậm chí Hiến pháp năm 1997 của Thái Lan tuyên bố
loại quân đội khỏi chính trị, nhưng trong thực tế không có điều đó. Ngày
19-9-2006, tướng Sonthi cùng một số tướng lĩnh quân đội làm đảo chính lật đổ
chính phủ của Thủ tướng Thaksin. Trong 5 năm (2006-2011), các cuộc biểu tình,
xung đột của các phe “Áo vàng” (PAD) và “Áo đỏ” (UDD) làm cho Thái Lan lâm
vào khủng hoảng chính trị, bốn lần thay đổi chính phủ; quân đội đã tham gia
trấn áp những người biểu tình ủng hộ Thaksin. Trong bầu cử tháng 7-2011,
tướng Prayut Chanocha - Tổng Tham mưu trưởng liên quân tuyên bố quân đội
không can thiệp vào chính trị, song lại hậu thuẫn đắc lực cho Đảng Dân chủ
của cựu Thủ tướng Abhisit.
Trong chiến lược “diễn biến hòa bình” nhằm chống phá độc lập dân tộc và
CNXH, các thế lực thù địch ra sức truyền bá quan điểm “phi chính trị hóa quân
đội”, về thực chất là lôi kéo quân đội xa rời hệ tư tưởng XHCN và lý tưởng
chiến đấu vì độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tách quân đội ra khỏi sự lãnh
đạo của Đảng Cộng sản, làm cho quân đội bị tha hóa, biến chất về chính trị và
bị vô hiệu hóa, đồng thời làm cho Đảng, Nhà nước và nhân dân mất chỗ dựa vững
chắc để bảo vệ Tổ quốc. Sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng về chiến lược và phải trả
ngay những giá rất đắt nếu ngộ nhận, mất cảnh giác trước âm mưu, thủ đoạn của
các thế lực thù địch nhằm “phi chính trị hóa quân đội”. Lịch sử thế giới
đương đại cho chúng ta những bài học rất sâu sắc về vấn đề này. Vào những
thập niên cuối thế kỷ XX, những người lãnh đạo Đảng, Nhà nước và Quân đội
Liên Xô đã rời bỏ nguyên tắc xây dựng quân đội về chính trị của chủ nghĩa Mác
- Lê-nin, nhất là xóa bỏ cơ chế lãnh đạo của Đảng Cộng sản đối với quân đội,
làm cho quân đội bị “phi chính trị hóa” và bị vô hiệu hóa. Đó là nguyên nhân
rất quan trọng dẫn tới sự sụp đổ và tan rã của Liên bang Xô-viết vào cuối năm
1991. Mặc dù lúc đó Quân đội Liên Xô còn 3,9 triệu quân thường trực, được
trang bị rất hiện đại, vượt xa các nước cả về lực lượng chiến đấu thông
thường và lực lượng hạt nhân chiến lược, nhưng do bị tha hóa, biến chất về
chính trị nên mất sức chiến đấu, không thể bảo vệ được Tổ quốc XHCN.
Quân đội nhân dân Việt Nam là một quân đội kiểu mới do Đảng Cộng sản
Việt Nam tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, mang bản chất cách mạng
của giai cấp công nhân đồng thời có tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc, là
lực lượng chính trị - lực lượng chiến đấu trung thành và tin cậy của Đảng,
của Tổ quốc XHCN và nhân dân. Bản chất quân đội kiểu mới thể hiện rõ nét ở sự
thống nhất hữu cơ tính đảng, tính giai cấp, tính nhân dân và tính dân tộc,
được biểu hiện sinh động ở lý tưởng chiến đấu, cơ sở chính trị-xã hội, cơ chế
lãnh đạo, chỉ huy và chức năng, nhiệm vụ của quân đội.
Lý tưởng chiến đấu của quân đội ta là vì độc lập dân tộc và CNXH, vì
hạnh phúc của nhân dân. Đó là lý tưởng chính trị-đạo đức không chỉ mang tính
cách mạng và khoa học, mà còn thấm đượm tính nhân văn sâu sắc; không chỉ phản
ánh sự vận động, phát triển đúng quy luật của xã hội Việt Nam đương đại, mà
còn phản ánh khát vọng thiêng liêng tự giải phóng, giành quyền Độc lập - Tự
do - Hạnh phúc và vươn lên làm chủ của các thế hệ người Việt Nam xuyên suốt
hành trình lịch sử dân tộc. Lý tưởng chiến đấu đó thể hiện tình cảm sâu nặng
và trách nhiệm chính trị-đạo đức cao của quân đội đối với Đảng, với Tổ quốc
XHCN và nhân dân.
Cơ sở chính trị-xã hội của quân đội ta là phong trào cách mạng của nhân
dân do Đảng Cộng sản Việt
Quân đội ta do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về
mọi mặt thông qua hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống
cơ quan chính trị, cán bộ chính trị các cấp và các tổ chức quần chúng ở đơn
vị cơ sở. Nhà nước thống nhất quản lý đối với quân đội theo quy định của Hiến
pháp và pháp luật. Các tổ chức đảng trong quân đội hoạt động theo nguyên tắc
tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, phân công cá nhân phụ trách theo chức
trách, nhiệm vụ. Trên cơ sở bảo đảm sự lãnh đạo vững chắc, toàn diện, xuyên
suốt của các tổ chức đảng, trong quân đội thực hiện chế độ một người chỉ huy
gắn với thực hiện chế độ chính ủy, chính trị viên.
Các chức năng, nhiệm vụ của quân đội ta có ý nghĩa chính trị-xã hội sâu
rộng. Trong chiến đấu, quân đội ta thực hiện xuất sắc vai trò nòng cốt cùng
toàn dân đánh giặc, hỗ trợ tích cực cho đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ
trang của quần chúng, chiến đấu ngoan cường và dũng cảm để giải phóng và bảo vệ
Tổ quốc, xả thân hy sinh để giải phóng và bảo vệ nhân dân. Trong lao động sản
xuất, quân đội ta tích cực tham gia phát triển kinh tế - xã hội gắn với tăng
cường quốc phòng - an ninh, xung kích đến những vùng sâu, vùng xa còn nhiều
khó khăn gian khổ để xây dựng những khu kinh tế - quốc phòng, những công
trình có ý nghĩa chiến lược của đất nước. Trong thực hiện chức năng đội quân
công tác, quân đội ta luôn đồng cam cộng khổ cùng nhân dân, tích cực vận động
và giúp dân xóa đói giảm nghèo, nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần quan
trọng xây dựng hệ thống chính trị và đời sống văn hóa ở cơ sở, giữ vững ổn
định chính trị - xã hội, cuộc sống bình yên và hạnh phúc của nhân dân; luôn
xung kích đi đầu trong cứu hộ, cứu nạn, hết lòng giúp nhân dân phòng, chống và
khắc phục hậu quả thiên tai, hỏa hoạn, xả thân trong hiểm nguy để cứu tính
mạng và tài sản của nhân dân. Có thể nói, tính chính trị và tính nhân văn gắn
kết thống nhất trong bản chất và truyền thống của quân đội ta, không thể phủ
nhận.
Thực tiễn cho thấy quan điểm “phi chính trị hóa quân đội” đưa ra không
chỉ do phương pháp nhận thức mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan,
phiến diện; mà còn xuất phát từ những toan tính cơ hội, thực dụng, ngộ nhận
lầm tưởng mình là “người có tài, am hiểu thời, thế”, lại thêm những bức xúc
cá nhân do quá đề cao “cái tôi” nên cố tình tráo trở phương pháp, xuyên tạc
tình hình, “chọc gậy bánh xe”. Chúng ta không thể chấp nhận quan điểm đó, bởi
đó sẽ là nguyên nhân làm suy yếu sức mạnh chiến đấu của quân đội, dẫn đến mất
ổn định chính trị-xã hội và đưa đất nước lâm vào khủng hoảng chính trị.
(Theo QĐND) THUÝ
AN VÀ THUỲ LINH
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét