18:04
TPP
với cải cách doanh nghiệp nhà nước: lực cản hay lực đẩy?
SGTT.VN - Để trở thành thành viên của TPP, các
nước tham gia đàm phán phải cải cách các công ty, tập đoàn quốc doanh để
chúng hoạt động theo quy luật thị trường, giảm sự kiểm soát của Nhà nước, đẩy
mạnh cổ phần hoá. Thêm nữa, TPP sẽ có cam kết về mua sắm chính phủ, tức là
những vấn đề liên quan đến đấu thầu nhà nước, đầu tư công…
Kết
thúc vòng đàm phán hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) lần thứ 12
tại Dallas (Texas – Mỹ tháng 5.2012), một trong những yêu cầu mà Mỹ đưa ra là
để trở thành thành viên của TPP, các nước tham gia đàm phán phải cải cách các
công ty, tập đoàn quốc doanh để chúng hoạt động theo quy luật thị trường,
giảm sự kiểm soát của Nhà nước, đẩy mạnh cổ phần hoá. Thêm nữa, TPP sẽ có cam
kết về mua sắm chính phủ, tức là những vấn đề liên quan đến đấu thầu nhà
nước, đầu tư công…, lĩnh vực mà xưa nay tập đoàn nhà nước và doanh nghiệp nhà
nước (DNNN) có đặc quyền nhất định.
Yêu
cầu trên là một thách thức cho Việt
Tuy
nhiên, từ một góc độ khác, TPP có thể xem như một “lực đẩy” từ bên ngoài khi
việc cải cách DNNN trở thành một trong những đòi hỏi khách quan và cấp bách
trong lộ trình tái cơ cấu nền kinh tế. Các thống kê cho thấy, chỉ tiêu hệ số
thu nhập trên tài sản và hệ số thu nhập vốn cổ phần của các tập đoàn, tổng
công ty nhà nước là 20,8%, thấp hơn nhiều so với khu vực đầu tư nước ngoài.
Lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu chỉ đạt khoảng 13,1%, thấp hơn nhiều
so với lãi suất vay ngân hàng thương mại. Có đến 80% tổng lợi nhuận trước
thuế đến từ bốn tập đoàn: Dầu khí, Viễn thông quân đội, Bưu chính viễn thông
và Cao su. Các tập đoàn và tổng công ty còn lại, tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ
sở hữu còn thấp hơn.
Mặc
dù được hưởng nhiều chính sách ưu đãi, được rót vốn nhiều hơn so với doanh
nghiệp ở các khu vực khác nhưng hiệu quả đầu tư của các DNNN còn thấp. Việc
đầu tư tràn lan nhiều lĩnh vực không phải là thế mạnh của tập đoàn để chạy
theo lợi nhuận ngắn hạn của thị trường (được tạo ra từ những lĩnh vực nhiều
rủi ro như bất động sản, chứng khoán, ngân hàng…), và phát triển theo hướng
khép kín (ít giao thương với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, mà tự xây
dựng hệ thống các công ty con sản xuất ra sản phẩm trung gian cung cấp đầu
vào cho tập đoàn), đã phần nào phá vỡ cấu trúc và các quan hệ cơ bản của nền
kinh tế, triệt tiêu cơ hội tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị của các
doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Chính
việc đầu tư không đúng chuyên ngành của các tập đoàn nhà nước đã tạo ra những
mối quan hệ sở hữu phức tạp (như sở hữu chéo giữa doanh nghiệp với nhau,
doanh nghiệp – ngân hàng và ngân hàng – doanh nghiệp) mà Nhà nước đôi khi
không thể can thiệp mạnh tay. Điển hình cho việc đầu tư dàn trải, ngoài
ngành, xao lãng đầu tư trong lĩnh vực chính có thể kể đến những cái tên lớn
như Vinashin hay EVN. Sự đổ vỡ của “quả đấm thép” Vinashin là sản phẩm của
một quá trình nhiều bất cập bao gồm việc đầu tư ngoài quy hoạch, trái quy
định của pháp luật, sử dụng nguồn vốn vay kém hiệu quả, và nhiều sai phạm
trong hoạt động quản lý và kinh doanh.
Thêm
vào đó, quá trình cổ phần hoá các DNNN diễn ra không đều đặn và bị chi phối
không ít bởi sự xung đột lợi ích giữa các đối tượng có liên quan. Tốc độ cổ
phần hoá đạt đỉnh điểm trong giai đoạn 2003 – 2006. Từ 2008 – 2011, việc cổ
phần hoá đã giảm tốc – chỉ 117 DNNN được cổ phần hoá – tương đương với con số
thống kê trong năm 2007, và còn thấp hơn nhiều lần so với các năm trước đó.
Chương trình cổ phần hoá cũng không tạo ra nhiều thay đổi trong cơ cấu sở hữu
DNNN. Đến năm 2011, chỉ có khoảng 30% sở hữu của DNNN được đưa vào cổ phần
hoá, nhưng trong đó Nhà nước vẫn giữ tới hơn 57%. Tức là trong suốt 20 năm từ
khi bắt đầu chương trình này, chưa đến 15% sở hữu nhà nước được chuyển sang
các chủ sở hữu khác.
Sự
dùng dằng, chưa thể phân tách rạch ròi vai trò quản lý với hoạt động kinh
doanh do Nhà nước làm chủ nếu còn kéo dài thì khó có khả năng xử lý triệt để
vấn đề. Những chuyện như mua tàu, ụ nổi cũ nát với giá cao ở Vinalines sai
phạm rất rõ nhưng trong quá trình mổ xẻ, truy cứu trách nhiệm không tìm đâu
ra đối tượng chịu trách nhiệm chính. Quản lý thiếu hiệu quả đến vậy nên hậu
quả là dù sai phạm, tham nhũng liên tục bị phát hiện, chúng vẫn lặp đi lặp
lại ở nhiều đơn vị như hiện nay, thậm chí ngày càng tinh vi hơn với quy mô
ngày càng gia tăng.
Vì
vậy, việc cải tổ khu vực DNNN trên thực tế, ngoài mục tiêu tiến đến đáp ứng
được các tiêu chuẩn khắt khe do các nước đề ra trong quá trình hội nhập sâu
rộng hơn vào nền kinh tế quốc tế – như TPP, còn là nhu cầu khách quan nội tại
của nền kinh tế Việt Nam. Cải cách cơ cấu nền kinh tế, đặc biệt là khu vực
DNNN, đến thời điểm này không chỉ là chuyện chẳng đặng đừng, trước nhiều bài
học lớn rút ra từ những vụ bê bối gần đây như Vinashin và sau đó là
Vinalines, mà còn là vấn đề cấp bách đối với mục tiêu phát triển, vì sự sống
còn của nền kinh tế nhằm thoát khỏi tụt hậu và gia tăng tính cạnh tranh.
Đồng Dao – Nhật Anh
* Số liệu
trong bài trích từ “Kiến nghị diễn đàn kinh tế mùa xuân 2012” của uỷ ban Kinh
tế của Quốc hội
|
Thứ Năm, 28 tháng 6, 2012
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét