Chữ quốc ngữ được hình thành thế nào?
Cập nhật lúc 10:42
Theo tên gọi thì đây là chữ để ghi tiếng nước nhà, cách gọi đó là
do các nhân sĩ yêu nước đề xuất vì thấy nó dễ học, có lợi cho việc canh tân
nước nhà. Thực ra đây là chữ của các giáo sĩ Cơ đốc đặt ra để phiên âm tiếng
Việt, để học tiếng Việt nhằm mục đích truyền đạo cho người bản xứ.
Họ từ Châu Âu tới một khu vực có
nền văn hóa cao như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam. Họ không thể đối xử như
người Tây Ban Nha với người da đỏ ở Nam Mỹ. Buộc lòng họ phải thích nghi.
Tại Nhật, F.Xavier (1548) đã
phiên một quyển giáo lý ra tiếng Nhật. Họ đã in nhiều sách vào cuối thế kỷ 16
như Ngữ pháp tiếng Nhật và Từ
vựng Nhật – Bồ tại Nagasaki (1603). Ở Trung Hoa, giáo sĩ
người Ý đã dịch Bộ Tứ thư ra chữ La tinh. Chính ông và một giáo sĩ khác đã
soạn Từ điển Bồ - Hán (trong
đó có chữ Bồ, chữ Hán gốc, chữ Hán phiên âm). Giáo sư người Pháp là Trigault
(1626) đã cho in “Âm vận kinh vi toàn cục”, trình bày các phụ âm, nguyên âm,
thanh điệu của tiếng Hán và sự kết hợp của chúng.
Như vậy là việc phiên âm tiếng
bản địa bằng chữ La tinh nhằm mục đích truyền giáo là hiện tượng phổ biến,
mang tính khu vực, chứ chữ quốc ngữ không phải là hiện tượng độc đáo, chỉ có
ở Việt Nam như một số người đã lầm tưởng. Mặt khác, cần thấy rằng trong số
các giáo sĩ Châu Âu có một số trước khi đến Việt Nam đã từng sống ở Nhật Bản.
Việc phiên âm tiếng bản địa không phải là xa lạ với họ. Đương nhiên việc
phiên âm này phụ thuộc vào trình độ tiếng Việt của họ. Bước đầu họ phải mò
mẫm thử nghiệm. Đấy là chữ quốc ngữ ở giai đoạn manh nha.
Minh chứng cho thứ chữ phiên âm
tiếng Việt ở thời kỳ này chỉ có thể tập hợp những bức thư, những bản tường
trình lẻ tẻ viết tay bằng tiếng Ý, tiếng Bồ gửi cho cấp trên. Chẳng hạn João
Roiz đến Cửa Nàn viết một báo cáo bằng tiếng Bồ gửi về La Mã (1621) trong đó
có từ Annam (viết liền), unsai: ông sãi, ungue: ông Nghè (Nghè bộ - chức quan
cai trị về địa ba tài chính), Cacham: Kẻ Chàm (Thanh Chiêm, Quảng Nam).
Văn kiện của Gaspar Luis viết từ
Macao gửi về La Mã (đề ngày 17/11/1621) thuật lại các việc xảy ra ở miền Nam
Việt Nam có những tên riêng như Facfo: Hải phố (Hội An), Tuson: Đà Nẵng,
Cachiam: Kẻ Chàm, Noiicman: Nước Mặn (Bình Định) và danh từ chung như Ungue:
ông Nghè, Ontrum: ông Trùm. Năm 1626, Gaspar Luis trong bản tường trình hàng
năm, viết bằng tiếng La tinh ghi một số địa danh Dinhcham, Cacham, Nuocman,
Quanghia, Quinhin, Ranran: Đà Nẵng.
Gaspar
d’Amaral, người Bồ được cử đi Nhật năm 1623 sau đến Việt Nam (1630) và ở lại
làm trưởng phái đoàn tại Kẻ Chợ (Thăng long). Ông đã viết bản tường trình
hàng năm về cho Cha Giám sát các tỉnh Nhật Bản và Trung Hoa (1632).
Ở đây, chữ viết
phiên âm đã có dấu ghi thanh điệu như đàng tlão, đàng ngoày, đàng tlân: Đàng Trong, Đàng Ngoài, Đàng
Trên (vùng Cao Bằng do nhà Mạc cai trị), Oũ nghè: ông Nghè, nhà phũ:
nhà Phủ (mỗi xứ có nhiều nhà Phủ), nhà huyện: nhà Huyện (mỗi
Phủ có một số Huyện), đức
vương: Đức Vương (thời đó người dân gọi Chúa Trịnh Tráng là
Đức Vương), giỗ:
giỗ, ngày giỗ, chai: chay, ăn chay, ma chay, chặp: chạp, tháng chạp, Kẻ uạc:
Kẻ Vạc (ở gần Kẻ Nộ trong tỉnh Thanh Hóa).
Đến đây kể như chữ Quốc ngữ đã được hình thành. Alexandre de Rhodes, tác
giả cuốn Từ điển Việt – Bồ - La đã có mặt ở Việt Nam từ rất sớm, gần như
đồng thời với Gaspar d’Amaral. Ông truyền giáo ở miền Bắc. Sau do Chúa Trịnh
trục xuất, ông rời Bắc vào Nam. Truyền giáo được 5 năm (1640 – 1645). Rồi
Chúa Nguyễn Phúc Loan cũng cấm đạo, ông đành trở về Châu Âu. Ngoài nhiều bài
viết, ông để lại Từ điển Việt – Bồ
- La, Ngữ pháp tiếng Việt và “Phép giảng tám ngày cho kẻ muốn chịu phép rửa tội
mà beào đạo thánh Đức Chúa Blời”.
Về Từ điển Việt Bồ La ta sẽ xem xét vị trí của nó
sau. Trong Ngữ
pháp tiếng Việt có 2 chương trong 8 chương là 1 và 2 giới
thiệu về lai lịch các con chữ, về các dấu trên nguyên âm và thanh điệu. Tác
giả cho biết:
Về chữ viết như vậy là khá rạch
ròi.
Còn trong Từ điển ta sẽ thấy
diện mạo của các từ Việt vào thế kỷ 17 (không đơn thuần là cách ghi mà là
cách phát âm của thời kỳ đó)
Có nhiều từ không khác ngày nay
như: đi đây đi đó, dưa gang, ghen ghét, thơm tho. Có những từ khác cả về cách
ghi lẫn cách phát âm: chuầng trâu bò, cớ gì cớ sao, blái giứa (trái dứa), tlả (trả),
tlứng (trứng)…
Chữ Quốc ngữ thực sự trở thành
một công cụ ghi chép với đầy đủ khả năng ghi phụ âm đầu, phần vần và thanh
điệu mà bằng chứng là những tài liệu của Igesico Văn Tín và Bento Thiện, mặc
dù thứ chữ phiên âm ấy không giống với chữ viết hiện đại.
Đến đây chữ Quốc ngữ được coi là
bước vào giai đoạn hình thành. Từ điển Việt – Bồ - La là một cái mốc để gọi
tên một thời điểm trong quá trình tiến hóa liên tục của thứ chữ phiên âm.
Sau thế kỷ 17
có “Sách sổ sang chép các việc” của
Philiphê Bỉnh (bản viết tay năm 1822). Cuốn Từ điển Việt – La tinh của
Pigneaux de Béhaine, trước tưởng rằng bị thất lạc trong một vụ hỏa hoạn ở Cà
Mau, may có một bản sao được lưu trữ ở Văn khố Hội Truyền giáo ngoài.
Chữ Quốc ngữ trong từ điển này
có những thay đổi cơ bản. Cuốn “Nam Việt Dương hiệp từ vựng” của JL.Taberd
xuất bản tại Sérampore 1838 đã có cách ghi gần đúng với chữ Quốc ngữ ngày
nay. Vậy mà tác giả đã nói rõ là ông chỉ sửa sang lại, còn bảo lưu cách viết
của Pigneau De Béhaine. Thấy có cách viết gần gũi với chúng ta ngày nay thì
thật đáng mừng nhưng giải thích sao về sự đột biến này.
Từ
điển Việt – Bồ - La thuộc thế kỷ 17. Từ điển Việt – La thuộc thế kỷ 19. Người viết
bài này hiểu rằng giữa hai thế kỷ ấy có một khoảng trống vắng tư liệu cần
phải lấp đầy và nếu làm được thì mới giải thích được cặn kẽ những biến đổi
kia.
Quả thực trong kho lưu trữ của
Hội Truyền giáo nước ngoài Paris còn bảo tồn được những bức thư của các giáo
dân gửi bề trên hoặc ngược lại với niên đại rõ ràng từ 1702 đến 1792. Những
tài liệu này đã được công bố trong cuốn sách “Chữ Quốc ngữ thế kỷ 18”(do Đoàn Thiện Thuật sưu tầm và chủ biên,
Nxb Giáo dục, 2008).
Về phụ âm đầu, nếu như thế kỷ 17
(trong Từ điển Việt – Bồ - La) có 5 cách viết bl, tl, tr, mh, mnh thì ở thế kỷ 18 (qua cách
viết của nhiều người) chỉ còn 3 cách bl, tr, ml.
Nếu như vào thế kỷ 17 ba con chữ v, Φ, u được
dùng thay thế cho nhau, trong đó Φ chiếm ưu thế thì sang thế kỷ 18, v chiếm ưu
thế tuyệt đối (90%) và u không còn được dùng nữa.
Về
phần vần, xét qua những vần mà ngày nay ghi là ung, ông, ong, ta thấy như sau:
Cách viết của tác giả Việt –
Latinh dù sao cũng chỉ là cách viết của một người chứ không phải của tất cả
mọi người. Nói như vậy để khỏi ngộ nhận là vào thời kỳ của ông, mọi người đều
viết như thế. Bên cạnh ông vẫn có người viết khác, nhưng ông đã chấp nhận một
cách thì ông luôn luôn nhất quán, ông làm cho hệ thống chữ viết tiết kiệm và
xóa đi được dấu vết của hệ thống chữ Bồ.
Nhưng cách viết của ông còn lâu
mới thắng thế được và giành được địa vị độc tôn nếu không được JL Taberd tiếp
tay.
Từ
điển Nam Việt Dương hiệp Từ vựng ra đời là rất quan trọng. Nó là
chỗ dựa cho mọi người muốn học chữ Quốc ngữ. Nó điển chế hóa chính tả và làm
cho cách viết của Pigneau De Béhaine lưu truyền đến ngày nay.
GS Đoàn Thiện
Thuật (Trường ĐH Khoa học Xã
hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội)
***************************
Trước khi có những đề xuất cải
tiến, chữ Quốc ngữ đã được công nhận là văn tự chính thức của Việt Nam vào
thế kỷ 19. Nhà cầm quyền cũng có nhiều động thái để thúc đẩy sự truyền bá chữ
quốc ngữ như đưa vào quy định bổ nhiệm, thăng tiến cho quan chức hay miễn
thuế cho dân ở Nam Kỳ.
(VietNamNet)
Thực hiện: Diễm Anh - Nguyễn
Thảo - Ngân Anh
|
Chủ Nhật, 3 tháng 12, 2017
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét