Thứ Ba, 3 tháng 6, 2014


Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
Cập nhật lúc 08:03  
(Tình hình Biển Đông - Vấn đề Biển Đông) - Việt Nam có thể yêu cầu Tòa án Trọng tài Luật Biển giải thích, áp dụng Công ước về tư cách “đảo” hay “đá” của cấu trúc tự nhiên ở Hoàng Sa.
Việt Nam có thể yêu cầu Tòa án Trọng tài Luật Biển giải thích và áp dụng Công ước về tư cách “đảo” hay “đá” của các cấu trúc tự nhiên ở Hoàng Sa.
Việt Nam cũng có thể yêu cầu Tòa làm rõ việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải, đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và hải giám quanh khu vực giàn khoan.
Luận cứ của Trung Quốc
(a) Khi đem giàn khoan 981 đến vị trí giữa hai lô dầu 142 và 143 trong vùng Đặc quyền Kinh tế (EEZ) của Việt Nam (như trong bản đồ), Trung Quốc đã nói đến hai yếu tố làm cơ sở pháp lý cho quyết định của họ:
Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói rằng giàn khoan “đặt hoàn toàn trong vùng nước của các đảo Hoàng Sa của Trung Quốc”, ám chỉ trong vòng EEZ 200 hải lý và thềm lục địa của Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã dùng vũ lực đánh chiếm bất hợp pháp từ tay Việt Nam.
Trước hết phải khẳng định rằng, vùng EEZ và thềm lục địa đó chỉ được Công ước về Luật Biển của Liên hợp quốc 1982 (UNCLOS) công nhận nếu hội đủ các điều kiện: Bảo đảm cho con người sinh sống với nền kinh tế tự túc (nước ngọt và thực phẩm sản xuất tại chỗ) khi còn trong trạng thái thiên nhiên.
Nếu không có mỏm đất hay đá nào trong Hoàng Sa đủ điều kiện để được gọi là đảo (island), thì chúng chỉ là đá (reef) theo UNCLOS và chúng chỉ có lãnh hải 12 hải lý mà thôi.
(b) Trung Quốc cũng ám chỉ rằng giàn khoan Hải Dương 981 được hạ đặt cách đảo Hải Nam 180 hải lý về phía nam (cách đảo Lý Sơn của Việt Nam 120 hải lý về phía đông), tức là có vùng chồng lấn giữa EEZ của Việt Nam tính từ đảo Lý Sơn và EEZ của Trung Quốc tính từ đảo Hải Nam.

Ngày 27/5, Trung Quốc đã dời vị trí giàn khoan cách chỗ cũ 23 hải lý theo hướng đông đông bắc.  
Ngày 27/5, Trung Quốc đã dời vị trí giàn khoan cách chỗ cũ 23 hải lý theo hướng đông đông bắc.
Việt Nam có thể kiện ra tòa án quốc tế nào?
Luận cứ (a) của Trung Quốc, dùng Hoàng Sa mà đòi quyền khai thác cho giàn khoan 981 có thể được bác khước bằng hai vụ kiện, về hai điểm: (i) Hoàng Sa không phải thuộc chủ quyền của Trung Quốc mà là của Việt Nam; (ii) Hoàng Sa không có mỏm đá nào, kể cả Phú Lâm, xứng đáng gọi là đảo (island), tức có người sống trong nền kinh tế tự túc được trong trạng thái nguyên thuỷ sơ khai, mà chỉ toàn là đá (reef).
Vụ kiện thứ nhất về chủ quyền đất đai trên Hoàng Sa là thuộc luật quốc tế truyền thống (traditional international law), theo đó Việt Nam phải minh chứng theo nguyên tắc luật quốc tế là “một chính quyền muốn xác nhận chủ quyền phải có sự liên tục hành xử chủ quyền trong hòa bình, nói rõ ý định làm chủ, và nếu bị cưỡng chiếm thì phải phản đối chính quyền mới cướp đất của mình bằng võ lực, để ngăn cản chính quyền mới này thủ đắc chủ quyền bằng sự hành xử chủ quyền liên tục”.
Xét các bằng chứng lịch sử về chủ quyền của Việt Nam theo luật quốc tế này, thì Việt Nam, trong chiều dài lịch sử từ nhiều thế kỷ, đã xác nhận và hành xử chủ quyền trên Hoàng Sa và Trường Sa. Khi Trung Quốc chiếm Hoàng Sa bằng võ lực năm 1974 thì chính quyền Việt Nam Cộng hòa (VNCH), chính thể đang quản lý hành chính phần lãnh thổ Việt Nam từ vĩ tuyến 17 trở vào, đã phản đối.
 Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
Việt Nam có thể kiện Trung Quốc ra tòa án quốc tế
Sau đó Việt Nam Dân chủ Cộng hoà (nay là Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam) – kế quyền của VNCH theo nguyên tắc thừa kế quốc gia (succession of state) – cũng phản đối vụ Trung Quốc dùng võ lực chiếm Hoàng Sa, đồng thời nhiều lần phản đối việc Trung Quốc dùng võ lực chiếm một số đảo ở Trường Sa năm 1988 và các năm sau đó.
Điều này khẳng định chủ quyền Việt Nam trên Hoàng Sa và Trường Sa không thể bị coi là đã xói mòn vì thiếu sự tuyên bố và hành xử chủ quyền.
Tòa án có thẩm quyền xử các vụ kiện về chủ quyền đất đai (territorial sovereignty) là Tòa án Công lý Quốc tế (International Court of Justice, ICJ). Tuy nhiên để ICJ mở phiên tòa thì các bên liên quan phải đồng ý ra tòa và chấp thuận mọi phán quyết của tòa.
Nghĩa là trong vụ kiện về chủ quyền ở Hoàng Sa phải có sự đồng ý của Trung Quốc.
Trong vụ kiện thứ hai, trước Tòa án Trọng tài Luật Biển, Việt Nam có thể bác khước căn cứ pháp lý của việc Trung Quốc đặt giàn khoan 981 trên cả 2 luận cứ: luận cứ (b) về khoảng cách đảo Hải Nam tới giàn khoan chỉ có 180 hải lý, cùng với luận cứ (a) về tư cách đảo (island) của Hoàng Sa. Tòa án Trọng tài Luật Biển là tòa mà Việt Nam có thể kiện Trung Quốc, bất chấp Trung Quốc có đồng ý hay không.
Việt Nam có thể yêu cầu Tòa những gì?
Vị trí giàn khoan 981 có thể nằm trong vùng chồng lấn giữa EEZ của Việt Nam và EEZ của Trung Quốc tính từ Hải Nam. Tuy nhiên vị trí giàn khoan này rõ ràng nằm trong thềm lục địa của Việt Nam và hơn nữa ở hẳn sang phía Việt Nam nếu cần phải thương lượng theo Công ước để tìm ra một đường trung tuyến (median line) giữa hai thềm lục địa.
Việt Nam có thể yêu cầu Toà Trọng tài giải thích (declaratory judgement) và áp dụng Công ước về vấn đề không có mỏm đá, đất nào trong Hoàng Sa, kể cả Phú Lâm, xứng đáng là đảo (island) mà người ở được trong một nền kinh tế tự túc, trong trạng thái thiên nhiên trước khi Trung Quốc xây các tòa nhà ở được, phi trường, cảng, để tiếp tế, và nhà máy lọc nước ngọt.
Việt Nam cũng có thể yêu cầu Tòa làm rõ việc Trung Quốc, một quốc gia duyên hải, đã đơn phương ngăn chặn tự do lưu thông, với vòng vây rộng lớn các tầu chiến và hải giám quanh khu vực giàn khoan.
Một vi phạm khác nữa của Trung Quốc là trong khi chờ đợi các cơ quan tài phán giải quyết, Việt Nam chỉ giới hạn hoạt động trong các lô 118 và 119, thì Trung Quốc đáng lẽ phải thương lượng giải quyết bất đồng với Việt Nam về EEZ và thềm lục địa, trên tinh thần hiểu biết và cộng tác, ngõ hầu không hại đến thỏa ước sau cùng, thì Trung Quốc lại lấn lướt, hung hăng. Hành động Trung Quốc cũng vi phạm Tuyên bố về Ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC).
Về Công thư 1958 của Thủ tướng Phạm Văn Đồng
Trung Quốc cũng viện đến Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 để biện minh cho việc hạ đặt giàn khoan 981 trong vùng thềm lục địa và EEZ của Việt Nam. Bắc Kinh cho rằng với công thư này, Việt Nam đã nhường Hoàng Sa và Trường Sa cho Trung Quốc.
Tuy nhiên công thư mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi cho ông Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý- Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc”.
Như vậy có thể thấy rõ Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói về đảo, đất. Tuy nhiên Trung Quốc lại vin vào chi tiết “Chính phủ Việt Nam ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ Trung Quốc”. Ở đây cần làm rõ 2 luận cứ pháp lý:
(a) Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp định Geneva trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam, tức Việt Nam Cộng hòa (VHCH), cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền VHCH. Chính quyền VHCH cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974.
Trong khi đó, Thủ tướng Phạm Văn Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VHCH vào thời điểm đó, mà chỉ đưa ra tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc mà thôi.
(b) Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral declaration) như Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế.
Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng chỉ nói “Việt Nam ghi nhận và tán thành quyết định về hải phận của Trung Quốc và Việt Nam tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc''.
Công thư này, trong ngôn ngữ dùng, chỉ có ý định ủng hộ ngoại giao cho Trung Quốc về một điểm là hải phận 12 hải lý mà Trung Quốc đang lo lắng tuyên bố để chống lại sự đe dọa lúc đó của Mỹ từ hai đảo Kim Môn và Mả Tổ, do quân đội Đài Loan kiểm soát với sự ủng hộ mạnh mẽ của Mỹ, và sự đe dọa lớn hơn của Mỹ từ eo biển Đài Loan với Hạm đội 7.
Công thư của ông Đồng không thể được giải thích là liên quan đến nhượng đất, vì Trung Quốc yêu sách về tất cả các đảo ở Hoàng Sa và Trường Sa, trong đó nhiều đảo thuộc quyền chiếm hữu của một số quốc gia Đông Nam Á khác, mà ông Đồng không là đại diện để nói về chuyện nhượng đất.
Trung Quốc không thể đem Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng để đối kháng với các quốc gia Đông Nam Á khác được—kể cả VNCH trước đây.
 (Theo Đất Việt) Tạ Văn Tài

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét