Chặn
đứng ‘pháo đài bay’
‘Tỷ lệ B.52 bị bắn rơi mức độ nào thì Nhà Trắng rung chuyển,
mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?’ - Đại tướng Võ Nguyên Giáp từng
đặt câu hỏi.
LTS: 40 năm, một hành
trình thời gian đủ dài để các tài liệu từng được liệt vào dạng "Tuyệt
mật" (Top Secret) có thể được mang ra ánh sáng, để có cái nhìn đầy đủ về
12 ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không" , từ hai phía.
Không nhằm nhắc nhớ,
khơi gợi về một chương buồn trong quan hệ Việt - Mỹ, loạt bài nhằm cung cấp
thêm một góc nhìn lịch sử, từ người trong cuộc. Và cũng hi vọng, sự thật lịch
sử được minh định. Và đó cũng là lời nhắc nhở, rằng ''không có gì quý hơn độc
lập, tự do' và không ai có thể xâm phạm điều đó.
Ngày
8/1/1973, báo Tuần tin tức (News Week) chua chát với chính quyền Nixon bằng
câu bình luận về chiến dịch Linebacker 2: "Nếu B.52 ra Bắc Việt Nam và
chịu đựng thiệt hại như mức độ vừa qua thì chẳng cần phải là một thiên tài
toán học cũng thấy được rằng cuối cùng Mỹ sẽ hết nhẵn B.52".
Trong
khi đó, từ ngày 28/12/1972, Thượng nghị sỹ Mỹ McGovern đã tuyên bố thẳng
thừng: "Việc ném bom Bắc Việt Nam cần phải ngừng vì lý do thuần túy quân
sự là số thiệt hại về máy bay quá lớn.
...
Sẽ không thể có hòa bình và tù binh Mỹ không được về nước chừng nào việc ném
bom chưa chấm dứt. Ném bom không mang lại hòa bình, nó chỉ làm cho chiến
tranh lan rộng hơn và đẫm máu hơn. Không quân Mỹ chỉ có 400 máy bay B.52, thế
mà trong 2 tuần qua đã mất 11 chiếc ở Bắc Việt Nam (11 chiếc là con số mà Mỹ
thừa nhận đến ngày 26/12-NV). Chỉ riêng điều đó, chính sách ném bom là vô
nghĩa".
Người
Mỹ, đặc biệt là các cựu quân nhân Mỹ, những chỉ huy của quân đội Mỹ, những
nhà nghiên cứu quân sự... đã đi tìm kiếm rất lâu câu trả lời tại sao Hà Nội
lại có thể "xơi" B.52 một cách "ngọt" như thế trong 12
ngày đêm "Điện Biên Phủ trên không"?
Sai lầm về chiến thuật?
Charles
Barrows, đại úy hoa tiêu B.52 bị bắt làm tù binh đặt vấn đề ngay khi còn ngồi
ở Hỏa Lò: "Hệ thống điện tử trên máy bay B.52 rất tinh vi và đắt tiền
nhưng vẫn không gây nhiễu nổi ra-đa Bắc Việt.
Siêu
pháo đài bay B.52 đã cải tiến nhiều lần, máy móc rất tốt... Các phi công B.52
được huấn luyện công phu, thành thạo các chiến thuật hiện đại và B.52 được
bảo vệ dày đặc, nhưng vẫn bị bắn rơi vì đạn phòng không... Không quân chiến
lược của Mỹ không thể chịu đựng nổi tỷ lệ tổn thất về B.52 trên bầu trời Hà Nội".
Câu
hỏi này của Charles Barrows đã được Đại tướng Võ Nguyên Giáp đặt ra theo
hướng ngược lại với các cán bộ tham mưu tác chiến của Quân chủng Phòng không
VNDCCH từ tháng 5/1972: "Tỷ lệ B.52 bị bắn rơi mức độ nào thì Nhà Trắng
rung chuyển, mức độ nào thì Mỹ không chịu nổi, phải thua?".
Cho
đến lúc đó các phương án đánh B.52 trên bầu trời Hà Nội, Hải Phòng đều đã có
những yêu cầu về hiệu suất chiến đấu từng trận, từng ngày nhưng chưa nói đến
chỉ tiêu về tỷ lệ bắn rơi B.52. Đại tướng Tổng tư lệnh đã phát hiện ra thiếu
sót đó.
Sau
mấy tuần vật lộn với những con số, câu trả lời đã được đưa ra:
- N1
- tỷ lệ Mỹ chịu đựng được là 1 -2% (trên tổng số B.52 tham chiến của Mỹ);
- N2
- tỷ lệ làm Nhà Trắng rung chuyển là 6 - 7%;
- N3
- tỷ lệ buộc Mỹ thua cuộc là trên 10%.
Câu
hỏi tiếp theo của Tổng tư lệnh với Quân chủng Phòng không Không quân là: Quân
chủng chọn tỷ lệ nào? Câu trả lời lần này có ngay lập tức: Chúng tôi loại trừ
N1, quyết tâm đạt N2 và vươn tới N3.
Đại
tướng chỉ thị: Muốn vậy quân chủng phải làm tốt hai việc: Khẩn trương hoàn
thành kế hoạch đánh B52 bảo vệ Hà Nội, Hải Phòng để dựa vào đó hoàn tất mọi
công tác chuẩn bị; gấp rút hoàn chỉnh các tài liệu về cách đánh B.52 để lấy
đó mà huấn luyện cho bộ đội thật thành thạo.
Quân
chủng Phòng không Không quân đã thực hiện xuất sắc chỉ thị đó, hoàn thành
vượt mức chỉ tiêu N3. Trong 12 ngày đêm mùa đông năm 1972, tỷ lệ B.52 bị bắn
hạ là 17,6% (34/197 chiếc). Hà Nội góp công trong đó 23 chiếc.
Đại
úy phi công lái B.52 Robert E. Wolff, cũng bị bắt tại Hà Nội, lại có phân
tích khác (trên tờ Air Force Magazine năm 1979): "Khi bay hướng Bắc về
phía Trung Quốc, chúng tôi lắng nghe máy bay chiến đấu bắn phá và máy bay gây
nhiễu ngăn cản hệ thống phòng thủ của Hà Nội hoạt động. Các máy bay F.111
hoàn thành được nhiệm vụ của chúng, một vài máy bay MIG vẫn cất cánh được.
Máy
bay chiến đấu càn quét của chúng tôi gặp khó khăn trong việc liên lạc với tàu
hải quân Hoa Kỳ hoạt động trong vịnh Bắc Bộ, làm nhiệm vụ phối hợp chặn máy
bay đối phương. Các phi công của máy bay hộ tống chúng tôi không thể khai hỏa
nếu không nhận được sự cho phép vì chúng tôi không muốn có một sai lầm nào
trong việc nhận định địch - bạn.
Viên
phi công Mỹ còn nhớ, "ở đây chúng tôi đã có một suy nghĩ. Nhiều phi công
trong toán bay tưởng rằng đoạn bay trong lúc bắn phá của phi vụ sẽ là đoạn
nguy hiểm nhất. Nhưng trên thực tế, giai đoạn rời khỏi mục tiêu cũng khó khăn
không kém. Chúng tôi phát hiện ra là các ác tên lửa SAM đạt hiệu suất cao
nhất khi các máy bay B.52 đổi hướng lần cuối cùng để rời mục tiêu, vì lúc này
ra-đa của đối phương thu nhận được hình ảnh tối đa của máy bay".
Người
ta đã bàn luận nhiều về khía cạnh đó của chiến dịch. Mâu thuẫn gay gắt nhất
giữa các tay súng và Bộ tham mưu chiến dịch là về "thế đi của đàn voi
con". Đội hình kéo dài nhiều dặm, các máy bay cùng theo một đường, một
độ cao, một hướng. Cả 36 máy bay đến một điểm nhất định rồi lần lượt đổi
hướng thì chẳng cần tài giỏi gì phe phòng thủ cũng biết nhằm vào đâu để bắn
chiếc 37".
Đại
úy phi công Drenkowski tán thành quan điểm này, nhưng đặt thêm những vấn đề
cũng trên tạp chí Air Force: "Tên lửa, pháo phòng không bắn lên dày đặc.
B.52 thực hiện các thao tác né tránh, tuy biết rằng né tránh cũng chẳng mang
lại kết quả gì. Kẻ thù của B.52 là tên lửa SAM. Trong khi bay từng tốp 3
chiếc, kẻ thù của B.52 còn là những vụ đụng vào nhau ở trên trời. Lúc này, vũ
khí đáng sợ nhất với B.52 lại là một chiếc B.52 khác đang bay gần cạnh nó.
Các nhân viên phi hành bối rối khi thấy ở phía trước lại có B.52 bị bắn rơi,
trong khi đạn pháo phòng không vẫn nổ tới tấp bốn phía xung quanh.
Trong
đêm 19/12, người ta biết chắc chắn là đã có một số B.52 bị bắn rơi. Cả 2
chiếc B.52G này đều bị trúng tên lửa đúng lúc ngoặt để bay ra khỏi mục tiêu,
và rơi gần Hà Nôi. Các toán B.52 tiếp sau cũng bị SAM bay lên đón đánh dữ
dội. Một B.52 khác bị thương bay về đến Lào thì rơi. Đến ngày 20/12, 6 chiếc
B.52 bị bắn rơi trong 9 giờ.
Vậy
là 3 ngày, 300 lần B.52 xuất kích, bị bắn rơi 9 chiếc, tỷ lệ tổn thất tới 3%,
một tỷ lệ không thể nào chấp nhận. Những máy bay B.52 bị bắn rơi lại là những
B.52G đã được trang bị khí tài gây nhiễu rất mạnh...
Các
kíp lái cho rằng tổn thất B.52 quá lớn là do việc vạch kế hoạch tồi, chiến
thuật kém. Họ thấy cần thu hẹp vòng ngoặt để nhanh chóng thoát khỏi mục tiêu,
bay ra vịnh Bắc Bộ. Họ muốn được phép làm các động tác cơ động né tránh, bay
theo các đường đan chéo nhau, thu ngắn đội hình, từ nhiều hướng tiếp cận các
mục tiêu, độ cao khác nhau thay đổi liên tục không theo quy luật để đối
phương khó đối phó. Nhưng như vậy lại vẫn tăng thêm nguy cơ là chính B.52 đâm
phải nhau trên không".
Sự ám
ảnh SAM2
Tên
lửa SAM 2, vẫn được xem là kẻ thù của B.52, vì được thiết kế bắn tới độ cao
B.52 thường sử dụng, vốn được Hà Nội gọi tên là "rồng lửa Thăng
Long", trong chiến dịch 12 ngày đêm bảo vệ vùng trời Thủ đô là mối đe
dọa lớn nhất, trở thành nối ám ảnh cho bất cứ kíp bay B.52 nào nhận nhiệm vụ
mang bom ra vùng châu thổ Sông Hồng.
Tuy
nhiên, nghệ thuật điều khiển SAM của lực lượng phòng không - không quân Hà
Nội lại là cái khiến người Mỹ phải nghiêng mình.
Trên
tạp chí "Không quân Mỹ", John L.Frisbee viết: "Trong thời kỳ
chiến tranh thế giới 2, tổn thất máy bay ném bom bị phòng không hay máy bay
chiến đấu đối phương bắn hạ tại hai chiến trường chính yếu được ước tính
trung bình: cứ 64 phi xuất thì có 1 chiếc bị bắn hạ và lúc ấy chưa có tên lửa
SAM hữu hiệu. Trái lại, trên không phận Hà Nội và Hải Phòng thì cứ 49 phi
xuất lại có một B.52 bị SAM bắn rơi".
Cựu
Phó Tham mưu trưởng không quân Mỹ khi trả lời tạp chí AirForce vào tháng
6/1973 cũng thừa nhận: "Bắc Việt Nam rõ ràng là có nhiều kinh nghiệm bắn
tên lửa SAM cũng như các loại súng phòng không khác. Họ cũng có nhiều kinh
nghiệm trong việc phát hiện máy bay từ các đài điều khiển mặt đất... Không
quân Mỹ đã tiến hành chiến tranh điện tử trên quy mô lớn, nhưng các máy bay
vẫn dễ bị tổn thương.
...Bắc
Việt đã bắn hạ hàng chục B.52 bằng cách ngắm bắn bằng mắt thường. Chúng tôi
cho rằng Bắc Việt Nam đã phát triển được các lực lượng phòng không dày dạn
kinh nghiệm nhất thế giới. Rõ ràng họ có kinh nghiệm hơn bất cứ nước nào
trong việc phóng tên lửa SAM lên để hạ máy bay".
Cũng
Drenkowski, trong "Về chiến dịch Linebacker 2", phân tích:
"Những người điều khiển tên lửa SAM khôn ngoan đã quan sát ngay chiếc
B.52 đi đầu ngoặt khỏi mục tiêu. Họ phóng lên một quả SAM để tên lửa bay theo
đường đạn 45 giây tới gần chỗ B.52 phải ngoặt. Họ dùng 5-10 giây điều khiển
quả tên lửa "khóa" vào điểm ngoặt, sao cho khi tên lửa đến đó vừa
đúng lúc chiếc B.52 tiếp theo vừa bay tới. Thật ngon xơi!".
John
T. Greenwood, trong cuốn "Chiến tranh Việt Nam" (Vietnam War) chỉ
rõ: "Để lợi dụng khả năng có gió mạnh thổi từ hướng Tây Bắc, các máy bay
bao giờ cũng từ phía Tây Bắc bay vào các mục tiêu lớn ở Hà Nội. Ngay sau khi
trút bom, máy bay phải lượn vòng rất lớn ra phía sau mục tiêu để thoát ra
ngoài tầm bắn của tên lửa đất đối không càng nhanh càng tốt.
Theo
quy định, các tốp trong đội hình tiến công của B.52 chỉ được bay ở các độ cao
và hướng khác nhau rất nhỏ. Các tốp phải bám chặc đội hình để làm giảm khả
năng dễ bị tổn thương vì tên lửa đổi phương, để tăng hiệu quả bảo vệ của các
phương tiện gây nhiễu điện tử trong đội hình và giữa các tốp, để giữ đội hình
trong hành lang có thả sợi nhiễu.
Vì
các phi công thuộc Bộ tư lệnh không quân chiến lược ít khi bay trong các đội
hình lớn vào ban đêm và vì vùng trời Hà Nội chật hẹp sẽ đông đặc máy bay, nên
các phi công được lệnh tránh va chạm bằng cách càng ít thực hiện động tác cơ
động càng tốt.
Những
chiếc B.52 đầu tiên trong đêm 18/12 ném bom các sân bay Hòa Lạc, Kép và Phúc
Yên.
Sau
đó, Kinh Nỗ và Yên Viên bị ném bom. Chiếc máy bay mang mật danh "Than
củi" dẫn đầu 9 chiếc B.52 cất cánh từ Guam khi đánh vào nhà kho Yên
Viên, Ai Mỗ bị 2 tên lửa SAM bắn trúng trước khi kịp trút bom và rơi xuống
phía tây bắc Hà Nội. Đó là chiếc B.52 đầu tiên bị hỏa lực phòng không Hà Nội
bắn rơi trong chiến dịch và là chiếc thứ 2 bị bắn rơi trong cuộc chiến tranh.
Đến
nửa đêm, 30 máy bay cất cánh từ Guam oanh tạc Hà Nội một lần nữa. Một chiếc
B.52 khác bị thương nặng vì tên lửa SAM khi đang ngoặt ra khỏi mục tiêu và
rơi ở Thái Lan sau khi tổ lái đã nhảy dù. 5 giờ sau, đợt thứ 3 bay vào, thêm
một B.52 bị bắn rơi...
Những điểm yếu nghiêm trọng trong việc vạch kế hoạch thực hiện, bộc lộ trong những cuộc oanh tạc ngày thứ nhất đã trở nên rõ nét một cách bi thảm trong những ngày sau. Các chiến thuật áp dụng trong chiến dịch ném bom mang tên Arefight (Đèn hồ quang) ở miền Nam Việt Nam không thích hợp với khu vực Hà Nội, nơi có hỏa lực phòng không mạnh. 5 phi vụ tiến hành hồi tháng 4, đặc biệt là trận oanh tạc Hải Phòng đã dẫn các nhà vạch kế hoạch Mỹ tới những nhận định sai lầm.
Ba
đợt, mỗi đêm gây khó khăn cho việc rải sợi nhiễu, hay trấn áp tên lửa đất đối
không, đồng thời giúp cho hệ thống phòng không đối phương (Hà Nội - NV) có
thời gian hồi phục và chuẩn bị đối phó với đợt tiến công mới.
Gió
thổi mạnh giúp cho các máy bay ném bom bay nhanh tới mục tiêu, nhưng đồng
thời cũng thổi bạt sợi nhiễu khiến cho các máy bay B.52 phải dựa vào thiết bị
gây nhiễu của chính mình để tránh bị ra-đa phát hiện.
Hơn
nữa, khi ra khỏi mục tiêu, các máy bay B.52 phải ngoặt trở lại bay ngược
chiều gió mạnh 100 hải lý nên tốc độ rút lui chậm lại quá nhiều, và hướng gây
nhiễu bị chệch, khiến cho ra-đa của các trận địa tên lửa SAM lân cận có thể
lọt qua những chỗ yếu trong màn nhiễu.
Thêm
nữa, đội hình máy bay ném bom quá dài và việc quy định một điểm ngoặt độc
nhất cho các máy bay khi ra khỏi mục tiêu đã giúp cho đối phương nhằm đúng
điểm ngoặt sau khi những tốp đầu bay qua".
Đại
úy phi công Drenkowski ngao ngán bình luận: "Những thay đổi về chiến
thuật sau Noel không phải để đáp ứng đề nghị của phi công... mà vì 3 viên
tướng chịu trách nhiệm về chiến dịch này ngồi ở Mỹ chợt nhận ra rằng nếu tốc
độ rơi máy bay cứ diễn ra như hiện tại thì chỉ trong 2 tuần nữa sẽ không còn
chiếc B.52 nào ở Đông Nam Á" ("Tấn bi kịch của Linebacker 2",
tạp chí Armed Forces Journal, tháng 7/1997).
(Theo VNN) Trường
Minh
|
Thứ Hai, 3 tháng 12, 2012
17:08
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét