Những bước xâm lấn thực địa Cập nhật lúc 08:53 Mang vũ khí đi “khảo sát khoa
học” Trong các khí tài quân sự mà Trung Quốc “đầu tư”
cho cuộc xâm nhập, có thể kể đến: có 20 tàu mà Trung Quốc thường xuyên duy
trì hoạt động (10 tàu chiến và 10 tàu hỗ trợ) quanh quần đảo Trường Sa là:
Tàu khu trục tên lửa lớp Lữ Đại mang số hiệu 164; các tàu hộ vệ tên lửa lớp
Giang Hộ mang số hiệu 510, 511, 513, 551, 552, 556; tàu hộ vệ tên lửa lớp
Thành Đô mang số hiệu 506; tàu hộ vệ lớp Giang Đông mang số hiệu 531; tàu hộ
vệ lớp Giang Nam mang số hiệu 503; 10 tàu bổ trợ (tàu đổ bộ số 929, 3 tàu vận
tải số 615, 463, 937, tàu đo đạc số 833, tàu kéo số 147; các tàu đánh cá có
vũ trang số 427, 811, 813, 812); ngoài ra còn một số pông tông và sà lan tự
hành. Từ
giữa năm 1987, Trung Quốc có nhiều hoạt động xâm phạm lãnh thổ Việt Nam ở khu
vực quần đảo Trường Sa như trinh sát, khảo sát, tập trận, cắm bia… nhằm biến
các bãi cạn này thành căn cứ quân sự, các điểm đóng quân, để “đặt chân vào”
khu vực Trường Sa của Việt Nam. Trung Quốc chiếm đóng và xây dựng trên bãi đá Chữ Thập vào đầu tháng 2.1988. TL Cụ
thể, “từ ngày 16.5 - 16.6.1987, Trung Quốc tiến hành diễn tập ở quần đảo
Trường Sa có sự tham gia của nhiều tàu thuộc hạm đội Nam Hải” (Theo Nguyễn
Hữu Đạo trong bài nghiên cứu: “Trung Quốc xâm lấn quần đảo Trường Sa năm
1988”, Thông tin đối ngoại, 8.2014, tr. 52). Cùng với đó, dưới danh nghĩa
khảo sát khoa học, Trung Quốc cho nhiều tàu đi thu thập tin tức tình báo ở các
đảo phía nam quần đảo Trường Sa. Đầu
năm 1988, tình hình trên quần đảo Trường Sa rất phức tạp, Trung Quốc đơn
phương đưa tàu chiến hoạt động ở vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam và đổ
quân chiếm các bãi đá. Cụ thể: Ngày 31.1.1988, chiếm bãi đá ngầm Chữ Thập;
ngày 18.2.1988, chiếm bãi đá ngầm Châu Viên; ngày 26.2.1988, chiếm bãi đá Ga
Ven; ngày 28.2.1988, chiếm bãi đá Huy Gơ. Đồng
thời phía Trung Quốc cũng cho tàu chiến ngăn cản, khiêu khích các tàu vận tải
của Việt Nam đang làm nhiệm vụ hậu cần, tiếp tế cho các đảo. Trung Quốc cho
xây dựng một số đường băng trên một vài đảo san hô làm đầu cầu tới các đảo
khác, nhằm đe dọa các nhóm đảo của Việt Nam. Tại các bãi Chữ Thập, Châu Viên…
đã có sự gây hấn căng thẳng, quyết liệt giữa tàu Việt Nam và tàu Trung Quốc,
có lúc nòng súng hai bên chĩa thẳng vào nhau, sẵn sàng khai hỏa. Tạo cớ xung đột vũ trang Trong tình thế hết sức khó khăn, Việt Nam cố gắng
tìm mọi cách xây dựng, củng cố các khu vực, các vị trí của quần đảo Trường Sa
mà Việt Nam đang quản lý, bằng việc đưa tàu vận tải chở vật liệu ra củng cố
các đảo chìm, bãi đá theo một kế hoạch mang tên CQ-88 (Chủ quyền 88). Bộ Tư
lệnh hải quân Quân đội nhân dân Việt Nam lệnh cho lực lượng bảo vệ các đảo
thuộc quần đảo Trường Sa và các tàu của Lữ đoàn 172 chuyển trạng thái sẵn
sàng chiến đấu, nhưng tránh âm mưu khiêu khích của tàu Trung Quốc; chỉ thị Lữ
đoàn 125 chuẩn bị tàu, pông tông sẵn sàng đưa lực lượng ra đóng giữ thêm các
bãi đá san hô (đảo chìm) ở Trường Sa; Trung đoàn 83 công binh chuẩn bị lực lượng
và phương tiện sẵn sàng cơ động xây dựng trên đảo. Ngày
2.12.1987, tàu HQ-604 thuộc Lữ đoàn 125 hải quân đưa bộ đội ra đóng giữ, xây
dựng trên đảo chìm Đá Tây; ngày 26.1.1988, quân ta đóng giữ, xây dựng trên
đảo chìm Tiên Nữ. Sau đó, hải quân Việt Nam liên tiếp đóng giữ, xây dựng trên
các đảo chìm: đảo Đá Lát (5.2.1988), đảo Đá Lớn (6.2.1988), đảo Đá Đông
(18.2.1988), đảo Tốc Tan (27.2.1988), cắm chốt đảo Núi Le (2.3.1988). Khi
Trung Quốc chiếm đóng bãi Chữ Thập và bãi Châu Viên, ngày 20.2.1988, Bộ Ngoại
giao CHXHCN Việt Nam ra tuyên bố: “Ngày 31.1.1988, trong khi 2 tàu vận tải
của Việt Nam làm nhiệm vụ bình thường ở vùng biển quần đảo Trường Sa của Việt
Nam thì 4 tàu chiến của hải quân Trung Quốc xâm phạm vùng biển Việt Nam đã
tiến hành khiêu khích và cản trở. Bốn tàu chiến này đến nay vẫn còn ở trong
vùng biển Việt Nam. Mấy ngày gần đây, phía Trung Quốc còn điều thêm nhiều tàu
chiến đến khu vực này. Tiếp theo nhiều hoạt động của hải quân Trung Quốc xâm
phạm lãnh thổ Việt Nam ở vùng quần đảo Trường Sa trong những năm qua như
trinh sát, khảo sát, tập trận, cắm bia... những hành động phi pháp trên đây
bộc lộ rõ ý đồ của nhà cầm quyền Trung Quốc xâm phạm chủ quyền lãnh thổ của
Việt Nam, đe dọa nghiêm trọng an ninh của nước Việt Nam và của các nước ven Biển
Đông, gây tình hình căng thẳng và mất ổn định ở Đông Nam Á”. Mặc
cho những phản ứng ngoại giao nêu rõ và chỉ đích danh hành vi xâm lược, Trung
Quốc vẫn tiếp tục tiến hành các cuộc xâm chiếm trên thực địa. Những
ngày cuối tháng 2.1988, Trung Quốc cho quân xâm lấn và đóng quân thêm ở các
bãi Ga Ven, Ke Nan và khống chế bãi Gạc Ma nằm trong cụm đảo Sinh Tồn thuộc
quần đảo Trường Sa. Quân
đội Trung Quốc ngày càng đẩy mạnh các hoạt động ngăn cản, phong tỏa và dùng
vũ lực khiêu chiến các tàu vận tải của Việt Nam nhằm tạo cớ gây xung đột vũ
trang. Đầu
tháng 3.1988, Trung Quốc huy động lực lượng của hai hạm đội xuống khu vực
quần đảo Trường Sa, “tăng số tàu hoạt động thường xuyên ở đây lên 9 đến 12
tàu chiến gồm 1 tàu khu trục tên lửa, 7 tàu hộ vệ tên lửa, 2 tàu hộ vệ pháo,
2 tàu đổ bộ, 3 tàu vận tải hỗ trợ LSM, tàu đo đạc, tàu kéo và 1 pông tông
lớn”. Tư
lệnh Quân chủng Hải quân Việt Nam điều quân đóng giữ các bãi đá Gạc Ma, Cô
Lin và Len Đao, giao cho Lữ đoàn vận tải 125 cử lực lượng thực hiện nhiệm vụ
này bởi Gạc Ma có vị trí quan trọng, nếu để hải quân Trung Quốc chiếm giữ thì
họ sẽ khống chế đường tiếp tế cho các căn cứ khác tại quần đảo Trường Sa.
(còn tiếp) (Lược
trích: Trường Sa 1988 - Hồ sơ một sự kiện lịch sử, Võ Hà sưu tầm, biên soạn,
Phanbook & NXB Đà Nẵng, 2021) (Theo
Thanh Niên) Võ Hà-Nguyễn An Nam |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét