Lời khai nhận tội có thể được xem là chứng cứ kết tội khi nào?
Cập nhật lúc 16:37
"Trong
trường hợp các cơ quan tiến hành tố tụng không thể thu thập được đầy đủ các
chứng cứ để chứng minh rằng cá nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi phạm tội,
thì buộc Tòa án phải tuyên họ không phạm tội" - luật sư Trần Tuấn Anh
nhấn mạnh.
Trao đổi với PV Dân Việt xung quanh một số nguyên tắc
trong tố tụng hình sự, luật sư Trần Tuấn Anh (Đoàn luật sư TP.Hà Nội) cho
biết, với ông và những luật sư khi hành nghề trong các vụ án hình sự, luôn
luôn tâm niệm một nguyên tắc được xem như kim chỉ nam cho hoạt động bào chữa,
đặc biệt là những vụ án có dấu hiệu oan sai, tình tiết mâu thuẫn, chưa rõ
ràng, đó là:
"Lời nhận tội của bị can,
bị cáo chỉ có thể được coi là chứng cứ nếu phù hợp với những chứng cứ khác
của vụ án.
Không được dùng lời nhận tội của
bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội" (khoản 2 Điều 98 Bộ luật Tố tụng Hình
sự năm 2015).
Luật sư Trần Tuấn Anh (Đoàn luật sư TP.Hà Nội).
Theo vị luật sư,
mặc dù, quy định này không được liệt kê trong Chương II - Những nguyên tắc cơ
bản của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015, nhưng với luật sư nói riêng và các
cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án) nói
chung, phải xem đây là nguyên tắc xuyên suốt quá trình điều tra, truy tố, xét
xử và bào chữa đối với bị can, bị cáo.
Bởi, rõ ràng một điều rằng, nếu chỉ căn
cứ vào lời khai nhận tội của bị can, bị cáo thì sẽ có lúc bị can, bị cáo khai
thế này, có lúc khai thế khác, lúc nhận tội, lúc không?
Vậy, trong trường hợp đó, nếu không có
các chứng cứ vật chất khác (như dấu vân tay, vết máu, công cụ, phương tiện
gây án, lời khai của các nhân chứng trực tiếp chứng kiến sự việc….) sẽ không
thể đủ căn cứ để có thể buộc tội, kết tội đối với bị can, bị cáo.
Chúng ta thường nói đến nguyên tắc "trọng chứng hơn trọng
cung" chính là để cụ
thể hóa điều này.
Mọi hành vi phạm tội luôn luôn để lại
dấu vết trên hiện trường vụ án và trách nhiệm của các cơ quan tiến hành tố
tụng là phải thu thập được các dấu vết này để làm chứng cứ buộc tội đối với
người thực hiện hành vi phạm tội.
Trong trường hợp các cơ quan tiến hành
tố tụng không thể thu thập được đầy đủ các chứng cứ để chứng minh rằng cá
nhân, tổ chức đã thực hiện hành vi phạm tội, thì buộc Tòa án phải tuyên họ
không phạm tội.
Đây là một trong những nguyên tắc cơ
bản được quy định tại Điều 13 Bộ luật Tố tụng Hình sự, cụ thể: "Người bị buộc tội được coi
là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật
này quy định và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật.
Khi không đủ và không thể làm sáng
tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định
thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị
buộc tội không có tội".
Điều 13, cũng như trong toàn bộ nội
dung các Điều luật thuộc Bộ luật Tố tụng Hình sự, đều nhấn mạnh đến nguyên
tắc thu thập chứng cứ, đó là phải "tuân
theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định".
Tức là, một vật chứng, một dấu vết, một
lời khai của nhân chứng chỉ được xem là chứng cứ khi được thu thập một cách
hợp pháp, theo đúng "trình
tự, thủ tục" được quy
định tại Bộ luật Tố tụng Hình sự và đặc biệt, nó phải tồn tại một cách khách
quan, không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người.
Bộ luật Tố tụng Hình sự quy định: Không được dùng lời
nhận tội của bị can, bị cáo làm chứng cứ duy nhất để buộc tội, kết tội".
Ảnh minh họa.
Vì vậy, việc ra
chợ mua về những vật dụng, hung khí để làm vật chứng vụ án là việc làm trái
với nguyên tắc trong Bộ luật Tố tụng Hình sự và đương nhiên những vật dụng,
hung khí đó không thể được xem là "chứng cứ" hợp pháp để xác định
hành vi phạm tội của bị can, bị cáo.
Việc đưa các vật dụng, hung khí khác
vào hồ sơ vụ án, không những không được dùng làm chứng cứ buộc tội mà còn có
thể bị xem là hành vi cố ý làm sai lệch hồ sơ vụ án và cùng với những hành vi
như: Thêm bút lục, rút bớt bút lục ra khỏi hồ sơ vụ án, thì những người thực
hiện hành vi này có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "làm sai
lệch hồ sơ vụ án" theo quy định tại Điều 375 Bộ luật Hình sự với khung
hình phạt lên đến 15 năm.
Ngoài ra, người phạm tội còn có thể bị áp dụng hình phạt
bổ sung là cấm đảm nhiệm chức vụ, làm công việc nhất định từ 1 đến 5 năm.
Hoạt động tố tụng hình sự là một hoạt động đặc biệt, nó
liên quan trực tiếp đến sinh mạng pháp lý của công dân và cả đời con, đời
cháu họ.
Chính vì vậy, Bộ luật Tố tụng Hình sự đã xây dựng một hệ
thống các trình tự, thủ tục một cách chặt chẽ, khoa học đòi hỏi những người
có thẩm quyền trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử buộc phải tuân theo
thì mới có thể chứng minh được hành vi phạm tội.
Mọi hành vi thực hiện không đúng trình tự, thủ tục do Bộ
luật này quy định, đều bị coi là hành vi trái pháp luật và không được sử dụng
để làm căn cứ, chứng cứ để kết tội đối với bị can, bị cáo.
Không thể dùng những lời lẽ có tính bao che, lấp liếm như: "Sai nhưng không ảnh hưởng
đến bản chất vấn đề" để
bào chữa cho những sai phạm cá nhân của các Điều tra viên, Kiểm sát viên,
Thẩm phán ...
Chúng ta, những người đang sống trong
một xã hội thượng tôn pháp luật, không thể chấp nhận cách tư duy này như một
"khẩu hiệu" trong hoạt động điều tra, truy tố và xét xử ở Việt Nam.
(Theo Dân Việt) Đình
Việt
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét