PHÓ THỦ TƯỚNG VŨ ĐỨC ĐAM Ở ĐÂU RỒI?
Cập
nhật lúc 10:12
Bài “GIÁO DỤC
VIỆT NAM: NỖI ĐAU NHIỀU KIẾP CHƯA TAN” viết chưa ráo mực, thì được tin ông
Mai Sỹ Tuấn, Phó giáo sư - Tiến sĩ, từng là
Trưởng khoa Sinh Học - Đại học Sư phạm Hà Nội, chủ biên sách giáo khoa mới,
gộp ba môn Lý-Hóa-Sinh vào một tên gọi “Khoa học tự nhiên” và khẳng định rằng,"cần
phải hiểu đây là một môn học, chứ không phải cộng cơ học của 3 môn", thì
đổ bệnh phát ốm (giaoduc.net.vn, 01/02/2018: Phó giáo sư Mai Sỹ Tuấn có dạy
được Vật lý, Hóa học không? Nếu không, đừng ép).
I. THUA XA THỜI
GS NGUYỄN VĂN HUYÊN VÀ GS TẠ QUANG BỬU
Vào những năm 50, 60 thế kỷ 20, Giáo sư
Nguyễn Văn Huyên đã cho dạy môn Khoa học thường thức ở cấp I (lớp 1- 4). Đến
cấp 2 ( lớp 5-7), ông đã cho tách các môn chuyên ngành. Dạy các môn Lý, Hóa,
Sinh, Sử, Địa, để học sinh có cơ hội đi dần vào chuyên sâu. Toán thì tách Số
học, Hình học, Đại số. Đó là bước đi rất khoa học.
Vào những năm chiến tranh khốc liệt,
Giáo sư Tạ Quang Bửu đã thúc đẩy thành lập hệ thống trường chuyên toán tại
các trường ĐH Tổng Hợp, ĐH Sư Phạm Hà Nội, ĐH Sư Phạm Vinh (1965-1966). Sau
đó, hệ thống trường chuyên toán được mở ở các tỉnh. Nhờ hệ thống trường
chuyên toán mà Việt
Tầm nhìn của Giáo sư Nguyễn Văn Huyên
và Giáo sư Tạ Quang Bửu là không có so sánh.
Phó giáo sư Mai Sỹ Tuấn, Chủ biên chương trình môn Khoa học tự nhiên bậc trung học cơ sở.
Nay các ông Nguyễn Minh Thuyết, Mai Sỹ
Tuấn lại nổi danh, làm ngược tiền nhân. Nhập các môn mà GS Nguyễn Văn Huyên
đã tách, gộp lại thành Khoa học thường thức để dạy ở cấp II. Ông Mai Sỹ Tuấn
còn khẳng định, “cần phải hiểu Vật Lý, Hóa Học, Sinh Học là một môn!”
Sau năm 1954, do đất nước còn khó khăn,
nền giáo dục mới phát triển, nên từ bình dân học vụ - người biết chữ dạy
người chưa biết chữ, rồi đến thời kỳ, hết lớp 7 thì đi dạy cấp I. Sau đó đến
thời kỳ hết lớp 10 đi học thêm 2 năm để dạy cấp 1 gọi là 10+2. Còn 10+3 thì
dạy cấp 2. Cũng vì thiếu giáo viên nên chương trình 10+3 lúc đó mới đào tạo
giáo viên Văn - Sử, Toán - Lý, Sinh - Hóa, Sinh - Địa. Đó không phải là
nguyên cớ cho một số người biện hộ rằng trước đây chúng ta đã đào tạo gộp các
môn, để mà quay lại thời khó khăn ban đầu.
Nếu ông Mai Sỹ Tuấn đã có bằng tiến sĩ
về Sinh học thì ông phải biết ngành Sinh học khi làm tiến sĩ thì được chia ra
rất nhiều ngành chuyên sâu. Nhưng các chuyên ngành này đều có gốc rễ chung
của khoa học sinh học. Còn Lý - Hoá - Sinh thì không bao giờ có thể là một
môn được.
Trong thần thoại Hy Lạp có những con
quái thú.
Thư giãn một chút để quay lại với
chuyên ngành. Dẫu rằng trong một lĩnh vực có nhiều ngành chuyên sâu, nhưng ở
Liên xô trước đây, khi bảo vệ luận án tiến sĩ, lĩnh vưc Toán và Lý có chung
một tên gọi là Tiến sĩ Toán - Lý. Nó phản ánh một thực tế, rằng người có học
vị tiến sĩ rất giỏi về chuyên sâu nhưng cũng rất giỏi trong lĩnh vực khoa học
rộng lớn hơn nhiều. Một ông tiến sĩ Toán có thể ngồi ở nhiều hội đồng chuyên
ngành, chứ không chỉ trong hội đồng chuyên sâu mà người đó bảo vệ luận án. Vì
thế mới có danh từ Bác học.
Ở Việt
Cho nên, tiến sĩ thời này ở nước ta, có
khuynh hướng là thợ, mà không phải là thầy. Nhìn các đề tài tiến sĩ trong
thời gian vừa qua, trừ các lĩnh vực tự nhiên đòi hỏi công bố trên các tạp chí
quốc tế (ISI/Scopus), thì thấy đau khổ cho học vị tiến sĩ nước nhà. Rất vụn
vặt.
Tiến sĩ là học vị khoa học. Muốn có học
vị tiến sĩ thì trước hết phải là một người học rộng, biết nhiều; phải là một
nhà bác học.
Cũng như vậy là học hàm giáo sư.
Cố Giáo sư Tạ Quang Bửu trong thời gian
du học ở châu Âu đã lao vào học nhiều ngành mà không đặt mục đích lấy bằng
tiến sĩ. Nên kiến thức của Cụ Tạ Quang Bửu mênh mông sâu rộng. Đạo đức và tầm
nhìn thì ở mức cao thăm thẳm tầng xanh.
Khác quá xa với các giáo sư tiến sĩ bộ
trưởng bây giờ. Họ đeo trên mình lủng củng một xâu chuỗi học hàm, học vị,
bằng cấp, chức danh, giải thưởng, huân chương mà kiến thức không có là bao.
Thật là, hậu sinh mà không khả úy!
II. PHẢI THAY
ĐỔI NHẬN THỨC VỀ GIÁO DỤC TRẺ NHỎ: DÀNH ĐIỀU TỐT NHẤT CHO HỌC SINH TIỂU HỌC
VÀ THCS
Như người mẹ nuôi con, những thứ ngon
nhất, bổ nhất, tốt nhất đều dành cho trẻ nhỏ. Giáo dục cũng vậy.
Trẻ con cảm thụ kiến thức rất nhanh và
nhớ rất lâu. Những gì được học từ bé thường hằn sâu suốt cả cuộc đời.
Cho nên, những lời mẹ ru con - qua câu
dân ca, ca dao và những bài thơ hay, đã truyền cho người con khả năng cảm thụ
văn học và âm nhạc, còn những câu tục ngữ, điển tích thì trở thành giáo lý
dạy con nên người.
Cuốn Tam Tự Kinh tuy bé nhỏ mà chứa
đựng kiến thức giáo lý ngàn cân. Bởi đó là đúc kết luân lý nhiều đời.
Giáo trình của chúng ta hiện nay làm
điều ngược lại. Ở bậc Tiểu học và THCS, học sinh ít được học những bài thơ,
bài văn hay, không được dạy những điển tích kinh điển nhất.
Về các khoa học xã hội, bị chi phối quá
nhiều bởi thời cuộc của chế độ hiện tại. Cho nên Văn chưa hay, Sử thì nhạt,
Luân lý không bền vững.
Trên tất cả là các em cần được học với
các thầy giỏi. Cùng một bài thơ mà được học với thầy giỏi thì sự cảm thụ khác
xa với thầy chưa thực giỏi. Các thầy giỏi sẽ tự có giáo trình riêng của mình,
phù hợp với từng đối tượng. Hãy lấy thể thao và âm nhạc làm thí dụ. Những
thầy giỏi luôn tìm học trò giỏi từ bé. Nhờ đó mới có thiên tài.
Nay áp đặt quan điểm rằng, bậc tiểu học
và THCS không cần thầy giáo hiểu biết sâu rộng, chỉ cần giới thiệu đại khái,
không học điều tinh túy căn bản, tức là sẽ tước đi cơ hội thành nhân tài và
siêu nhân của bao thế hệ.
Một quốc gia muốn hùng cường phải có
nhiều siêu nhân.
III. SỰ KHÁC
BIỆT CỦA THẦY GIỎI
Chắc chắn sẽ có rất nhiều giáo viên
muốn được nghe ông Nguyễn Minh Thuyết và ông Mai Sỹ Tuấn giảng Lý - Hóa -
Sinh để mà học tập.
Nhưng dạy theo giáo trình được chuẩn bị
trước không phải là điều khó. Trả lời học trò và giải các bài tập mới là điều
khó. Điều này thì ông Thuyết và ông Tuấn sẽ bị điểm liệt.
Người học rộng, càng học càng thấy mình
biết ít. Càng học càng thấy thế giớ bí hiểm và mình dốt.
Vì thế, các thầy giỏi luôn thấu hiểu
học trò, sợ học trò phải tốn công tìm hiểu như mình đã từng trải qua, nên tìm
cách biến điều phức tạp thành điều đơn giản, với thí dụ rất cụ thể để cho học
trò dễ hiểu, mà không sợ bị xem là tầm thường.
Ngược lại, có người biến điều đơn giản
thành điều rối rắm, để tự huyễn hoặc là cao siêu.
Người thầy giỏi luôn sợ không đủ kiến
thức để truyền dạy cho học trò. Khi thấy học trò xuất sắc, mà mình đã hết
kiến thức hoặc không đủ tầm, thì giới thiệu cho người giỏi hơn mình. May mắn
cho những ai được học với thầy giỏi. Tầm sư học đạo đã trở thành con đường
kinh điển cho những ai muốn tiến xa.
IV. NGUYÊN TẮC
KẾ THỪA
Khoa học luôn dựa trên nguyên tắc kế
thừa. Muốn cải cách chương trình giáo dục thì phải dựa vào nguyên tắc kế thừa.
Nay chương trình của ông Thuyết và ông
Tuấn không những không kế thừa, mà còn đi ngược lại với chương trình của các
bậc tiền nhân, ngược với cấu trúc tự nhiên và tiến bộ nhân loại. Loại bỏ
nguyên tắc kế thừa là vi phạm tiên đề.
Một bộ giáo trình không có kế thừa,
chắc chắn sẽ vô số sai sót. Sẽ tốn công sức biên soạn. Sẽ mất nhiều tiền cho
sách giáo khoa.
Nhớ lại, cũng những năm 60 của thế kỷ
20, anh em trong một nhà học chung một bộ giáo trình từ lớp 1 đến lớp 10 mà
không phải mua sách mới. Nay thì năm nào cũng in sách giáo khoa mới với những
bổ sung liên tục. Bổ sung toàn vặt vạnh. Nhưng học trò thì buộc phải bỏ tiền
mua sách mới. Làm điêu đứng các gia đình nghèo. Làm lãng phí bao tiền bạc của
cả xã hội.
Kế thừa là nguyên tắc đá tảng của tiến
bộ nhân loại. Người sau tiếp theo người trước mà đặt lên một viên gạch mới.
Tự cho mình tài năng, xóa bỏ công sức tiền nhân, làm lại từ đầu, là sự mê
muội.
V. SAO CỨ TỰ
LÀM NGHÈO MÌNH NHƯ THẾ NÀY?
Khi được biết Bộ GD&ĐT có dự án vay
100 triệu USD để đào tạo lại giáo viên dạy Lý - Hóa - Sinh và Sử - Địa, đào
tạo cán bộ phục vụ chương trình cải cách giáo dục, thì thất kinh.
Không biết thời Cụ Nguyễn Văn Huyên
biên soạn chương trình giáo dục phổ thông thì mất bao nhiêu tiền? Chắc chắn
là không đến 1% số tiền nêu trên. Sẽ có người tin rằng, lấy bộ giáo trình
thời Cụ Nguyễn Văn Huyên mà điều chỉnh thì còn tốt hơn bộ giáo trình mà ông
Nguyễn Văn Thuyết đang làm tổng chủ biên. Vừa tốt về nội dung vừa đỡ lãng phí
không biết bao nhiêu tiền bạc cho nhân dân.
Cho nên cải cách giáo dục hiện nay đang
ngả về hướng vẽ ra dự án để tiêu tiền. Đau xót thay, đây là tiền đi vay. Rồi
chúng ta phải đóng thêm thuế, và con cháu chúng ta phải nai lưng trả nợ.
Nếu không phải độc quyền, mà cho phép
có các chương trình khác, thì giáo viên không phải đào tạo lại, chẳng những
không phải vay 100 triệu USD này, mà quan trọng hơn là con cháu chúng ta được
học một chương trình tốt hơn. Đó là điều chắc chắn.
VI. TẠI SAO
PHẪN NỘ?
Chúng ta tranh luận, thảo luận, nhưng
không chỉ trích, không chưởi bới, không mạt sát.
Vâng, đó là văn hóa tối thiểu của nhà
giáo, của người làm khoa học. Nhưng văn hóa đó chỉ dành cho học thuật. Văn
hóa đó không dành cho sự độc quyền áp đặt thực thi chương trình giáo dục quốc
gia, ảnh hưởng đến bước tiến của một dân tộc.
Hấp tấp vội vã; làm ngược với tiền
nhân; hoang phí tiền bạc của nhân dân; kéo thụt lùi nền giáo dục nước nhà;
làm giảm khả năng cạnh tranh quốc tế của thế hệ trẻ; làm chậm bước tiến của
dân tộc, thì không chỉ phẫn nộ mà phải căm thù.
Đối với những người ngồi trên trọng
trách, nhưng không cẩn trọng để đến nỗi mang tai họa về cho đất nước, thì
chưởi bới hay mạt sát không có ý nghĩa, mà phải áp dụng hình phạt, nếu hành
động của họ làm tổn hại to lớn đến quốc gia, dân tộc. Để ngăn chặn một hành
động tai họa, thì không chỉ là thảo luận đề đạt, mà cần thiết còn phải phản
kháng.
Giáo dục quốc gia không phải là tài sản
riêng của ông bộ trưởng Bộ GD&ĐT hay của một nhóm người. Cất tiếng nói và
hành động là nghĩa vụ của mọi công dân.
VII. PHÓ THỦ
TƯỚNG VŨ ĐỨC ĐAM CẦN LÊN TIẾNG
Khi mà ông bộ trưởng Bộ GD&ĐT không
ngăn cản được mà thậm chí còn thúc đẩy một chương trình giáo dục tốn kém nguy
hại, thì đó là lúc ông Phó Thủ tướng phụ trách lĩnh vực giáo dục cần phải
hành động. Bởi vì:
1. Cải cách giáo dục kiểu vừa viết giáo
trình vừa triển khai là có tội.
2. Cải cách giáo dục chỉ độc quyền có
một chương trình của một nhóm người là không cạnh tranh nên không thể có
chương trình tốt.
3. Cải cách giáo dục bắt những người
lớn tuổi, đã dạy lâu năm một chuyên môn phải đi học chuyên môn khác để dạy,
là phản giáo dục.
4. Cải cách giáo dục với quan điểm rằng
học sinh tiểu học và học sinh trung học cơ sở không cần giáo viên giỏi, chỉ
cần dạy đại khái, là thảm họa.
5. Cải cách giáo dục phải đào tạo lại giáo
viên, viết lại chương trình với chi phí hàng trăm triệu đô la là hoang phí
tiền bạc của nhân dân.
6. Cải cách giáo dục bác bỏ đúc kết của
tiền nhân và tiến bộ nhân loại là phản khoa học.
VIII. HÃY DỰA
VÀO DÂN
Lúc nào khó hãy hỏi dân.
Vì thế, nếu còn băn khoăn hay do cơ chế
không cho phép hành động, thì ông Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam hãy dựa vào đội
ngũ giáo viên.
Ông hãy cho hỏi ý kiến giáo viên phổ
thông trên toàn quốc về chương trình cải cách này. Cụ thể hơn, ông hãy hỏi:
1. Đồng ý hay không đồng ý môn học gộp
Lý – Hóa – Sinh cho THCS.
2. Đồng ý hay không đồng ý chương trình vay 100 triệu đô la để đào tạo lại giáo viên dạy chương trình mới?
Câu trả lời chỉ có thể là CÓ hoặc
KHÔNG, chứ không có lựa chọn khác. Lúc đó ông sẽ thấy trí tuệ của quần chúng
giáo viên.
Đừng nói rằng họ không đủ trình độ để
trả lời. Cũng đừng quy kết rằng họ sợ trách nhiệm phải đi học mà phản đối. Họ
là đội ngũ thầy cô giáo, có kiến thức và có trách nhiệm với học trò của mình.
Ông cũng phá thế độc quyền chương trình
cải cách giáo dục bằng câu hỏi cho tất cả giáo viên đại học rằng:
1. Đồng ý hay không đồng ý chỉ độc
quyền một bộ chương trình cải cách giáo dục do ông Nguyễn Minh Thuyết làm
tổng chủ biên?
2. Đồng ý hay không đồng ý tạm dừng chương trình cải cách giáo dục phổ thông để chờ những giải pháp khoa học hơn?
Câu trả lời cũng chi là CÓ hoặc KHÔNG,
mà không có sự lựa chọn nào khác. Lúc đấy ông Phó Thủ tướng sẽ có cơ sở để mà
nói chuyện với Bộ GD&ĐT, với Chính phủ và với Quốc hội.
Ông có thể thay
đổi cách thu nhận ý kiến cũng như quyết định mà không cần viện đến những điều
trên. Đây là thời điểm mà ông Phó Thủ tướng phụ trách giáo dục cần thể hiện
chính kiến dứt khoát của mình vì nền giáo dục nước nhà. Đó là trách nhiệm của
ông trước nhân dân. Sự dĩ hòa vi quý - không thể có trong trường hợp loại trừ
(alternative), không bao giờ là sự lựa chọn của bậc hào kiệt.
Theo Facebook Nguyen Ngoc Chu
Hiện
nay nhiều lãnh đạo như quên mất lời dạy của tiền nhân: “Dễ trăm lần không
dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong”?
Thương Giang
|
Thứ Tư, 7 tháng 2, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét