Thứ Hai, 27 tháng 2, 2017

Chiến tranh xâm lược 1979: Trung Quốc thừa nhận thất bại

Cập nhật lúc 11:05 
(Quan hệ quốc tế) - Quốc tế đã khẳng định và chính người Trung Quốc cũng phải thừa nhận rằng, họ đã thất bại trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2 năm 1979.
Quốc tế đánh giá về chiến tranh xâm lược 1979
Về con số thiệt hại của hai bên
Hiện nay có rất nhiều nguồn tư liệu không đồng nhất về con số thương vong của quân đội hai nước. Trong đó, Trung Quốc tuyên bố họ là người chiến thắng với thương vong rất thấp, còn Việt Nam đánh giá đây là thất bại nặng nề nhất trong lịch sử hàng ngàn năm Trung Quốc xâm lược Việt Nam.
Còn phần lớn các học giả và các nhà nghiên cứu trên thế giới đều cho rằng, ít nhất Trung Quốc cũng gánh chịu thiệt hại gấp đôi Việt Nam. Với số lượng binh lính, vũ khí trang bị áp đảo, cùng với lợi thế bất ngờ, đó quả thực là một thất bại thảm hại của nhà cầm quyền Bắc Kinh.
Sau khi cuộc chiến tranh xâm lược kết thúc, Tướng Ngũ Tu Quyền, Phó tổng tư lệnh Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc đã tuyên bố rằng, số quân Việt Nam bị chết và bị thương là 50.000, trong khi con số tương ứng của Trung Quốc là 20.000.
Một số nguồn tin khác của Trung Quốc còn tự ca ngợi chiến thắng vĩ đại của quân đội nước này với tổn thất rất ít là 8.531 người chết và khoảng 21.000 bị thương.
Tuy nhiên, những công bố này đã nhanh chóng bị chính những cựu quân nhân Trung Quốc và những học giả quốc tế, những phóng viên chiến trường người Liên Xô, người Pháp… đã từng lăn lộn trên biên giới Việt-Trung năm 1979 phản bác.
Theo nhà sử học người Pháp Gilles Férier viết trong cuốn “Gilles Férier. Les trois guerres d'Indochine” (tạm dịch: “Gilles Férier. Ba cuộc chiến tranh ở Đông Dương”) do Nhà xuất bản Đại học Lyon xuất bản năm 1993, có khoảng 25.000 lính Trung Quốc thiệt mạng và gần 500 xe bọc thép hoặc pháo bị phá hủy, con số này phía Việt Nam cũng là gần tương tự nhưng thấp hơn một chút.
Đại tá Russell D. Howard thuộc Học Viện An Ninh Quốc Gia của Không Quân Hoa Kỳ cho rằng, quân Trung Quốc thương vong cỡ 60.000 người, trong đó số chết là 26.000. Cuộc chiến tuy ngắn ngày nhưng cũng đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế.
Một số nguồn khác cũng đồng ý với con số thương vong ít nhất khoảng 50.000 của phía Trung Quốc. Trong đó, nhà nghiên cứu King Chen (Đài Loan, Trung Quốc) cho biết, chỉ tính riêng tại các bệnh viện lớn ở Quảng Tây đã có ít nhất 30.000 thương binh Trung Quốc.
 Chien tranh xam luoc 1979: Trung Quoc thua nhan that bai
Xe tăng của Trung Quốc vượt cầu phao tràn sang Việt Nam
Tháng 4 năm 1979, Báo Quân đội Nhân dân của Việt Nam ước lượng tổng thương vong của quân Trung Quốc là 62.500 người, phía Việt Nam có hàng nghìn binh lính và dân thường chết và bị thương. Con số này tương đối phù hợp với đánh giá của Tạp chí Time của Mỹ.
Về người chiến thắng trong cuộc chiến
* Học giả King Chen của Đài Loan đánh giá, bên cạnh thành công trong việc bám theo được khá sát các kế hoạch tiến quân và rút quân, quân đội Trung Quốc không hoàn thành được những mục đích đã đề ra, nhiều nhất chỉ đạt được một nửa các mục tiêu, chủ yếu là về khía cạnh phá hủy kinh tế Việt Nam.
Về quân sự, điểm yếu của quân Trung Quốc là thiếu kinh nghiệm chiến đấu, tinh thần kém, không phát huy được thế mạnh về lực lượng và trang bị. Ngoài ra, vấn đề quan trọng nhất là họ không lường trước được thế trận phòng thủ nhân dân của Việt Nam hiệu quả đến mức nào.
Với quân số và vũ khí áp đảo, quân Trung Quốc đã không tiêu diệt được sư đoàn nào của Việt Nam, mà còn bị đánh tiêu diệt hoặc thiệt hại nặng nhiều đơn vị cấp tiểu đoàn, trung đoàn. Không những không dạy được cho quân đội Việt Nam bài học nào, Trung Quốc đã tự bộc lộ trình độ tác chiến yếu kém trước toàn thế giới.
Về ngoại giao, cuộc chiến của Trung Quốc núp dưới chiêu bài “Chiến tranh phản kích tự vệ” chống “Tiểu bá Việt Nam” đã nhanh chóng bị lật tẩy là một cuộc chiến tranh xâm lược, bị cộng đồng quốc tế lên án, ngay cả một số nhà lãnh đạo và đông đảo nhân dân nước này phản đối.
Cuộc chiến tranh phi nghĩa của Trung Quốc đã tạo ra được hiệu quả gì? - không gì cả! Nó không thể cắt đứt được mối quan hệ hữu nghị Việt-Xô; không buộc được Việt Nam rút quân khỏi mặt trận Tây-Nam; ngược lại, bộ mặt xâm lược giả dối của Bắc Kinh lại bị lật tẩy qua cuộc chiến này.
Về kinh tế, cuộc chiến tuy ngắn ngày nhưng cũng đã tiêu tốn của nước này khoảng 1,3 tỷ USD và làm ảnh hưởng lớn tới quá trình cải tổ kinh tế. Các khu vực giáp biên giới Việt Nam bị huy động quá lớn đã suy kiệt sau chiến tranh, khiến hố sâu ngăn cách giữa các vùng miền ngày càng gia tăng.
* Một luồng ý kiến đánh giá khác là của tác giả Edward C. O'Dowd, thể hiện trong cuốn sách "Chiến lược quân sự Trung Quốc trong cuộc chiến Đông Dương lần thứ 3" đã đánh giá rằng, quân Trung Quốc đã thể hiện trình độ chiến đấu rất yếu kém trong cuộc chiến.
Ví dụ như Trung Quốc đã cần tới 16 ngày, huy động 10 sư đoàn thuộc 6 quân khu (lực lượng gần bằng tổng binh lực hai Đại quân khu Quảng Châu và Thành Đô) lần lượt tham chiến để đánh chiếm thị xã Lạng Sơn, một thị xã chỉ cách biên giới 15 km và còn cách xa Hà Nội tới 154 km.
Những lúc cao điểm, Trung Quốc tập trung ở hướng Lạng Sơn tới 6 sư đoàn đồng loạt tấn công nhưng không đánh nổi 2 sư đoàn Việt Nam. Trung bình mỗi ngày quân Trung Quốc chỉ tiến được 0,9 km, mất tới 16 ngày chỉ để chiếm được 1/10 quãng đường tới Hà Nội.
Trung Quốc chiếm Cao Bằng vất vả đến mức cần ít nhất 2 Tập đoàn quân mới đánh chiếm được thị xã này trong giai đoạn 2. Một Tập đoàn quân khác cần 10 ngày để lấy Lào Cai và Cam Đường - hai đô thị cách biên giới không đến 15 km.
Tại Quảng Ninh, một trung đội Việt Nam đã cầm chân một trung đoàn Trung Quốc đang trên đường đánh chiếm núi Cao Ba Lanh, nằm giáp biên giới trong suốt 5 tiếng đồng hồ, gây thương vong cho 360 trong tổng số 2800 quân của trung đoàn này.
Những tổn thất nhân mạng lớn lặp lại trên toàn mặt trận đã cho thấy, quân đội Trung Quốc đã không có chiến thuật thích hợp để phát huy được ưu thế về quân số một cách hiệu quả, không thể đạt được tốc độ hành binh như mong muốn để thực hiện chiến lược “đánh nhanh thắng nhanh”.
Trung Quốc nói gì về thất bại năm 1979?
Theo một số chuyên gia quân sự nước ngoài, với lợi thế bất ngờ cùng sự áp đảo về quân số và trang bị, Đặng Tiểu Bình cho rằng, kết quả kém nhất thì trong tuần đầu tiên Trung Quốc cũng sẽ chiếm được 5 tỉnh của Việt Nam, nếu thuận lợi hơn sẽ dẫn cuộc chiến tranh xâm lược phát triển theo hướng khác.
Cuối tháng 12 năm 1978, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Trung Quốc Túc Dụ báo cáo tại Hội nghị lần 3 của Đảng Cộng sản Trung Quốc khóa XI rằng, chỉ cần dùng một phần lực lượng của các Đại quân khu Quảng Châu và Thành Đô là đủ để đánh chiếm Hà Nội trong vòng 1 tuần.
Sau khi bắt đầu đánh Việt Nam, khả năng chống đỡ của quân và dân Việt Nam vượt qua khả năng dự đoán của Đặng Tiểu Bình và các tướng lĩnh của quân đội Trung Quốc, khiến họ hoảng loạn không tìm ra được kế sách gì đối phó với cuộc chiến tranh nhân dân của chúng ta.
Không chỉ những học giả nước ngoài mà ngay cả trong giới chức lãnh đạo cao nhất của Trung Quốc như Đặng Tiểu Bình, Diệp Kiếm Anh…, cũng đã buộc phải thừa nhận thất bại cay đắng của quân đội Trung Quốc (tuy bề ngoài vẫn tuyên bố là “chiến thắng”, “đạt mục đích đề ra”).
Theo bản dịch bài phát biểu của Đặng Tiểu Bình trong hội nghị quân chính nội bộ ngày 16-3-1979 (sau khi rút quân về nước 1 tháng), do ông Dương Danh Dy dịch và gửi tới BBC vào năm 2011, Đặng Tiểu Bình đã bày tỏ thái độ rất không hài lòng về kết quả yếu kém của cuộc chiến tranh xâm lược.
Đặng chỉ trích gay gắt các quan chức chính quyền và các lãnh đạo quân đội: "Đánh lần này vũ khí, quân số đều gấp mấy lần Việt Nam. Chiến đấu ở Cao Bằng chí ít là 5 đánh 1, 6 đánh 1. Chiến đấu ở Lạng Sơn, Lào Cai cũng đều gấp mấy lần, thậm chí 6 đánh 1, 7 đánh 1…" nhưng "…thương vong của chúng ta gấp 4 lần so Việt Nam. Thần thoại của chúng ta đã bị hủy diệt” (ý nói về uy thế của Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc).
Giáo sư Đại học Harvard Ezra Feivel Vogel viết trong cuốn “Thời đại Đặng Tiểu Bình” do Nhà xuất bản Đại học Trung Văn Hồng Kông rằng, Đặng bị nhiều Ủy viên quân ủy trung ương phản đối, bao gồm cả Nguyên soái Diệp Kiếm Anh và Đại tướng Túc Dụ, nguyên Tổng tham mưu trưởng quân đội.
Nguyên soái Diệp Kiếm Anh (lúc đó là Chủ tịch nước-Phó Chủ tịch Quân ủy Trung ương, tức nhân vật số 2 của Trung Quốc) vốn đã bất bình nói rằng: “Diễu võ dương oai đánh Việt Nam thì được gì? Không khác gì Gia Cát Lượng Bắc phạt Tư Mã Ý, đánh vào nơi nào và làm sao đánh thắng được?”.
Ông Diệp còn cho rằng, Trung Quốc không thể đánh thắng một đội quân cơ động ngay trong nhà của họ và chỉ trích “Mỹ muốn báo thù Việt Nam bằng máu Trung Quốc. Không được dùng máu của người Trung Quốc để phục hận cho người Mỹ…”
Không ít quan chức cấp cao trong quân đội cũng như dân sự cho rằng, việc đánh Việt Nam là không khôn ngoan, số khác công khai phản đối việc tấn công một nước láng giềng xã hội chủ nghĩa, một số thì lo ngại xung đột sẽ dẫn tới hậu quả là Việt Nam thù địch lâu dài với Trung Quốc.
Ngay cả nhà lãnh đạo số 1 Trung Quốc lúc bấy giờ là Hoa Quốc Phong cũng không đồng tình, sau này cho dù khi thấy được tính chất nghiêm trọng của cuộc chiến nhưng ông ta cũng không cưỡng nổi uy quyền đang lên của Đặng Tiểu Bình để ngăn cản cuộc chiến tranh xâm lược.
Học giả Trung Quốc Zhang Xiaoming trong cuốn “Deng Xiaoping’s Long War: The Military Conflict between China and Vietnam, 1979-1991” (tạm dịch “Cuộc chiến tranh dài của Đặng Tiểu Bình: Xung đột quân sự giữa Việt Nam và Trung Quốc, 1979-1991”) do Nhà xuất bản Đại học Bắc North Carolina ấn hành năm 2015 đã chỉ ra những vấn đề rất quan trọng.
   
Nhiều tướng lĩnh Trung Quốc đã thừa nhận sự thất bại trong cuộc chiến 1979
10 năm sau, một tướng lĩnh cao cấp của Quân đội Trung Quốc là Thượng tướng Trần Tích Liên, nguyên Tư lệnh Binh chủng pháo binh, Tư lệnh Đại Quân Khu Thẩm Dương, Tư lệnh Đại Quân khu Bắc Kinh, nguyên Phó Thủ tướng Trung Quốc đã viết cuốn “Trong nội bộ Đảng cần để mọi người phát biểu, nói lên sự thực”.
Trong cuốn sách, ông Trần thẳng thắn tuyên bố rằng: “…Đây gọi là tác chiến kiểu gì? Là cuộc chiến dốt nát, là cuộc chiến ngu xuẩn, là cuộc chiến điên rồ, lính chết đầy ra đấy nhưng không ai dám kêu oan”. Đồng thời, ông này cũng chỉ trích kịch liệt Thượng tướng Hứa Thế Hữu.
“…nói đến mặt trận phía Đông trong Chiến tranh biên giới Việt-Trung, thì Hứa Thế Hữu (Tư lệnh mặt trận phía Đông - Tổng chỉ huy quân đội Trung Quốc trong cuộc chiến 1979) là tên điên, là kẻ làm càn, mê muội, nói vậy có đồng chí nào phản đối không?” - ông Trần nói.
Vị tướng này cho rằng, quân Trung Quốc, không những tấn công không mạnh mà phòng thủ cũng quá kém. 3 Tập đoàn quân, gồm mười mấy sư đoàn, 60% là bộ binh cơ giới, khi đột phá trung tâm thì một tuyến phòng ngự cũng không dựng nổi, để cuối cùng bị (quân Việt Nam) phản kích đánh cho thảm hại…
Tóm lại, trong chiến tranh xâm lược Việt Nam năm 1979, sự lạc hậu về chiến thuật tác chiến của quân đội Trung Quốc vốn không được cải thiện gì kể từ sau chiến thuật “biển người”, “biển hỏa lực” ở chiến tranh Triều Tiên những năm 1950. Điều này đã buộc Quân ủy Trung ương Trung Quốc đẩy mạnh quá trình hiện đại hóa quân đội nước này trong những thập niên sau.
Trên đây là những giới thiệu chung nhất về đánh giá của những người trong cuộc và ngoài cuộc về cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam tháng 2/1972 của nhà cầm quyền Bắc Kinh. Nếu có điều kiện, chúng ta sẽ tiếp tục tìm hiểu về cuộc chiến
(Theo Đất Việt) Thiên Nam

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét