Liều thuốc mạnh cho căn bệnh nợ công
Cập
nhật lúc 15:04
Một trong những yêu cầu quan trọng để giảm nợ công là cần phải
giảm được bội chi ngân sách. Tuy nhiên câu hỏi của Việt Nam là để giảm bội
chi ngân sách, Chính phủ cần phải tăng thu hay giảm chi?
Khuyến nghị gần
đây của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cho rằng Việt Nam cần phải cải thiện nguồn
thu. Đúng là phải cải thiện nguồn thu, nhưng phải hiểu sao cho đúng với bối
cảnh Việt Nam?
Tăng thu - cần làm gì?
Theo người
viết, Việt Nam cần phải nỗ lực cải thiện nguồn thu trên cơ sở giảm động cơ
che đậy nguồn thu ngân sách của chính quyền địa phương, tái cơ cấu các khoản
thu đang thiếu bền vững, cải cách cơ sở của một số sắc thuế, đồng thời cũng
phải nỗ lực chống gian lận thuế, thất thu thuế, chuyển giá, giảm quy mô của
nền kinh tế ngầm...
Tuy nhiên, điều
này không đồng nghĩa với khuyến nghị Việt Nam cần theo đuổi mục tiêu tăng tỷ
lệ thu ngân sách so với GDP trong thời gian tới trong bối cảnh nguồn thu từ
dầu thô và thu ngoại thương giảm sút.
Hình 1 cho thấy
tỷ lệ thu ngân sách so với GDP của Việt Nam hiện nay là phù hợp với các nước
cùng trình độ phát triển kinh tế trong khu vực, thậm chí phải nói chính xác
hơn là đang ở nhóm cao hơn. Tỷ lệ thu ngân sách của Việt Nam chỉ thấp hơn một
số nước, đặc biệt là Trung Quốc nhưng cao hơn nhiều so với Indonesia,
Philippines, Ấn Độ, Hàn Quốc... Thực ra tỷ lệ thu ngân sách của Việt Nam đã
từng ở mức cao nhất trong giai đoạn 2003-2010, so với các nước được so sánh ở
đây. Từ năm 2010, tỷ lệ này của Việt Nam đã giảm đáng kể, trở lại mức trung
bình trên của các nước.
Dựa trên thực
trạng này, IMF (2016) đã đưa ra khuyến nghị Việt Nam cần cải thiện nguồn thu
nhằm lấy lại tỷ lệ thu ngân sách so với GDP như trước đây và phù hợp với một
số nước trong khu vực.
Nghiên cứu của
IMF (2016), chủ quan hoặc vô tình, chỉ so sánh tỷ lệ thu ngân sách trên GDP
của Việt Nam với Trung Quốc, Campuchia và nhóm ASEAN 4 nên đã không mô tả
đúng bức tranh thu ngân sách của Việt Nam. Tuy nhiên, mặc dù giảm sút nhưng
tỷ lệ thu ngân sách hiện tại của Việt Nam vẫn cao hơn so với các nước được
IMF lấy so sánh, trừ Trung Quốc.
Thực tế cho
thấy giai đoạn trước 2008 thu ngân sách của Việt Nam quá cao chứ không phải
đó là mức hợp lý để làm cơ sở khuyến nghị quay trở lại mức thu ngân sách của
giai đoạn đó. Giai đoạn từ năm 2008 đến nay, mức thu tính trên GDP sụt giảm
một phần là do nền kinh tế suy giảm tăng trưởng chứ không phải do mức ngân
sách thu thấp.
Quan trọng hơn
cả là nguồn thu từ dầu thô sụt giảm đã khiến cho tỷ lệ thu ngân sách của Việt
Nam giảm sâu. Như vậy, để tăng tỷ lệ thu ngân sách, Việt Nam chỉ có thể tăng
cường các khoản thu ngoài dầu thô. Nhưng tỷ lệ thu từ thuế ngoại thương cũng
sụt giảm do các cam kết hội nhập quốc tế, nên Việt Nam chỉ có thể cải thiện
ngân sách từ nguồn thu nội địa.
Điều này có
nghĩa là gánh nặng ngân sách sẽ tiếp tục dồn lên khu vực sản xuất trong nước,
trong khi với sức tăng trưởng kinh tế đang bị suy giảm như hiện nay, và quan
trọng nữa là Chính phủ đang khuyến khích tinh thần khởi nghiệp, Việt Nam đang
cần một chính sách nới lỏng tài khóa (theo hướng giảm thu) chứ không phải
thắt chặt. Nói tóm lại, không có lý do gì để Việt Nam phải nỗ lực quay lại
thời kỳ trước.
Trong khi đó,
xét về tỷ lệ chi ngân sách so với GDP, Việt Nam cũng thuộc nhóm cao nhất
trong số các nước tương đồng trong khu vực. Điều đáng nói là cuối thập niên
1990, Việt Nam chỉ thuộc nhóm nước trung vị xét về tỷ lệ chi ngân sách nhưng
hiện tại Việt Nam là nước dẫn đầu cùng với Trung Quốc và Ấn Độ. Trong khi đó,
Malaysia, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapore, Philippines, Indonesia... đều có tỷ
lệ chi ngân sách so với GDP khá thấp.
Điều này cho
thấy rằng có cơ sở thực tiễn để nói rằng tỷ lệ chi ngân sách hiện nay của
Việt Nam đã ở mức tương đối cao so với nhiều nước trong khu vực có trình độ
phát triển tương đồng. Do đó không có cơ sở để Chính phủ tiếp tục gia tăng vị
thế ngân sách nhà nước so với quy mô nền kinh tế trong giai đoạn cải cách
hiện nay và sắp tới.
Liều kháng sinh mạnh cho căn bệnh nợ công
Đưa nợ công về
giới hạn an toàn không phải là vấn đề “một sớm một chiều” nhưng cũng không
phải là chuyện “để đến chiều tính”. Dưới đây là một số gợi ý chính sách được
rút ra từ những nghiên cứu gần đây của chúng tôi:
Thứ nhất, Chính
phủ phải siết chặt lại kỷ cương, kỷ luật tài khóa một cách nghiêm minh. Các
khoản chi ngân sách của bộ ngành và địa phương chỉ được cho phép trong giới
hạn ngân sách đã dự toán. Mọi trường hợp chi vượt dự toán đều không được chấp
nhận và người đứng đầu đơn vị được cấp dự toán ngân sách phải chịu trách
nhiệm nếu để xảy ra tình trạng vượt chi.
Thứ hai, yêu
cầu minh bạch ngân sách và trách nhiệm giải trình độc lập. Các đơn vị sử dụng
dự toán ngân sách phải định kỳ công khai đầy đủ tình hình thu chi ngân sách
của đơn vị mình trên trang thông tin điện tử để người dân có thể truy cập và
giám sát.
Thứ ba, nguyên
tắc để thu hẹp thâm hụt ngân sách là giữ kỷ luật chi ngân sách theo đúng dự
toán, phần tăng thu, nếu có, sẽ dùng để giảm bội chi, tức giảm vay nợ chứ
không phải vẫn giữ nguyên mức bội chi và vay nợ và tăng chi tiêu mới ngoài dự
toán.
Thứ tư, quy
định cụ thể mức trần bội chi ngân sách trong Luật Ngân sách Nhà nước. Có thể
chấp nhận mức bội chi ngân sách động bình quân cho cả thời kỳ thay vì bội chi
tĩnh cho từng năm như hiện nay.
Thứ năm, chuyển
các khoản chi ngoài ngân sách vào trong ngân sách để đảm bảo có thể cân đối
và kiểm soát được bội chi ngân sách, duy trì tính thống nhất trong quản lý
ngân sách quốc gia. Kiểm soát chặt tình trạng đội vốn đầu tư trong các dự án
đầu tư công, xem hành vi để đội vốn đầu tư dự án tựa như hành vi làm thất
thoát vốn và tài sản của Nhà nước.
Thứ sáu, kiểm
soát chặt chẽ các khoản nợ bảo lãnh chính phủ, xóa bỏ tình trạng cho vay chỉ
định nhằm phát huy vai trò giám sát của hệ thống tài chính. Người có thẩm
quyền cấp bảo lãnh theo phân cấp phải chịu trách nhiệm đối với hiệu quả của
các khoản nợ được bảo lãnh.
Thứ bảy, duy
trì trạng thái cân bằng của cán cân ngân sách cơ bản, tiến đến thặng dư ở mức
tối thiểu bằng với chi phí tài trợ nợ để đảm bảo nợ công không tăng thêm. Một
khi tăng trưởng kinh tế được thúc đẩy, tỷ lệ nợ công so với GDP sẽ giảm xuống
một cách bền vững.
Thứ tám, Chính
phủ vẫn phải tiếp tục nỗ lực cải thiện nguồn thu ngân sách nhưng không phải
bằng cách “tận thu”. Thay vào đó cần phải tìm cách chống thất thu cho ngân
sách, chống nợ đọng thuế, gian lận thuế, chống chuyển giá, chống các hành vi
gian lận thương mại, buôn lậu và trốn thuế.
Thứ chín, khi
nguồn thu ngân sách từ dầu thô và thuế ngoại thương sụt giảm, các khoản thu
nội địa sẽ tăng lên là điều khó tránh khỏi. Một số khoản thuế có cơ sở thuế
tiềm năng rất lớn cần phải cải cách như thuế bất động sản và thuế thu nhập
dành cho người có thu nhập cao và người sở hữu nhiều tư bản (vừa đảm bảo
nguồn thu, vừa đảm bảo tính công bằng dọc của thuế).
Thứ mười, đánh
giá lại để có biện pháp kiểm soát bội chi ngân sách ở các địa phương. Tăng
cường phân cấp ngân sách, đặt ra lộ trình để tiến đến tự chủ tài khóa cho các
địa phương. Thay vì áp đặt, hãy yêu cầu các địa phương tự đưa ra cam kết về
lộ trình tự chủ từng phần ngân sách của mình trong giai đoạn tới.
Thứ mười một,
tỷ lệ phân chia ngân sách giữa trung ương với địa phương nên khác nhau theo
từng sắc thuế thay vì sử dụng một tỷ lệ chung như hiện nay. Cần thay đổi cách
thức trợ cấp ngân sách cho địa phương sao cho khuyến khích các địa phương
càng tiết kiệm càng có lợi thay vì kiểu khuyến khích ngược như hiện nay.
Thứ mười hai,
giảm tư duy nhiệm kỳ bằng cách tính toán lại thành quả cho từng nhiệm kỳ. Mỗi
lãnh đạo mới phải cam kết giữ được kỷ luật tài khóa trong nhiệm kỳ của mình,
phải chịu trách nhiệm duy trì được tối thiểu cân bằng ngân sách cơ bản bình
quân cho cả nhiệm kỳ. Lấy kết quả cải thiện cán cân ngân sách cơ bản là tiêu
chí đánh giá thành quả lãnh đạo chứ không phải chỉ một vế như hiện nay là thu
ngân sách.
(THEO
TBKTSG) Nguyễn Xuân Thành - Đỗ Thiên Anh Tuấn
|
Thứ Sáu, 21 tháng 10, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét