Doanh nghiệp FDI được quyền
"mặc cả": Tiền lệ xấu Samsung?
Cập
nhật lúc
07:45
(Tài chính) - Nếu cứ để DN trong nước tự bơi, tỉ lệ hi sinh là rất cao, khi đó tính tự chủ của nền kinh tế cũng bị đe dọa
Vì sao FDI có
“quyền mặc cả”?
Trong báo cáo
của mình, Viện nghiên cứu kinh tế trung ương (CIEM) đã đặt vấn đề DN FDI đang
xin quá nhiều. Báo cáo đã chỉ thẳng ví dụ về Samsung và cho rằng cần đặt ra
vấn đề hạn chế "quyền mặc cả" của FDI để tránh tạo những tiền lệ
xấu.
Câu hỏi đặt ra
là vì sao lại phải làm như vậy? Có phải vấn đề ưu đãi cho FDI suốt 20 năm qua
bây giờ mới bộc lộ những mâu thuẫn? Và chính sách ưu đãi này đang ảnh hưởng
thế nào tới khu vực sản xuất trong nước?
Không phủ nhận những đóng góp của khu
vực FDI đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam, tuy nhiên ông Bùi
Trinh cho rằng chính sách ưu đãi hiện nay đang tạo ra một sân chơi bất bình
đẳng giữa khu vực DN FDI với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Trong khi khu vực DN FDI đang nhận được
rất nhiều ưu đãi và hoạt động rất tốt thì khu vực doanh nghiệp nội vẫn yếu
kém và yếu thế. Đáng nói, có nhiều địa phương vì chỉ tiêu tăng trưởng, vì
thành tích thi đua đã không ngại thỏa hiệp ưu đãi nhằm thu hút FDI bằng được,
thỏa hiệp cũng để giữ chân bằng được DN FDI.
Không đổ lỗi hoàn toàn cho chính sách
ưu đãi nhưng rõ ràng đây cũng là một nguyên nhân khiến doanh nghiệp nội khó
càng thêm khó. DN nội nếu muốn tìm được chỗ đứng trên thị trường cũng phải
chịu rất nhiều sức ép hoặc phải chấp nhận lép vế trước doanh nghiệp FDI.
Do nội lực các doanh nghiệp nội quá
yếu, cách làm còn thụ động việc dựa vào FDI để phát triển là tất yếu. Nhưng
nếu để phụ thuộc quá nhiều sẽ còn nguy hiểm hơn, nhất là khi có biến động, hoặc
vì lý do nào đó FDI rút vốn thì không thể nói trước được điều gì sẽ xảy
ra.
Theo ông Trinh, một điều chắc chắn các
cơ quan lý đều biết là khi thu hút FDI và ngay cả khi những doanh nghiệp FDI
hoạt động tốt thì cơ bản Việt Nam cũng gần như không được hưởng hoặc là hưởng
rất ít trong chuỗi sản phẩm của họ. FDI chỉ coi Việt
“Nhưng hình như người dân và cả các cơ
quan quản lý bằng lòng với điều này, các doanh nghiệp nội làm gia công thì
gia công cho FDI cũng thế thôi. Các nhà quản lý nghĩ thế chăng?”, ông đặt câu
hỏi.
Đáng buồn, dù FDI luôn ở vị thế lấn
lướt và được hưởng rất nhiều ưu đãi từ chính sách thu hút vốn của Việt
Cả những đóng góp vào tăng trưởng GDP
của khu vực FDI cũng được chỉ ra là không có nhiều ý nghĩa. Ông Trinh nói
rằng, phải nhìn sâu hơn vào chỉ tiêu này xem tăng trưởng này là vì cái gì? Nó
có lan tỏa đến chu kỳ sản xuất sau không? Hay càng tăng trưởng lại càng nợ
nần, càng bội chi ngân sách, môi trường bị hủy hoại?
“Tại sao các doanh nghiệp FDI có quyền
mặc cả còn doanh nghiệp nội thì không? Tai sao các doanh nghiệp nội chậm nộp
thuế thì bị “công khai minh bạch” trong khi cơ quan thuế chậm hoàn thuế cho
doanh nghiệp lại không công khai cục thuế nào nợ thuế doanh nghiệp? Tại sao
không có sự cư xử bình đẳng giữa các thể chế?”, ông Trinh nói thẳng vấn đề
này chỉ có cơ quan quản lý mới có thể trả lời được.
PGS.TSKH Nguyễn Văn Minh - Viện kinh tế
và thương mại quốc tế cũng cho rằng chính sách thu hút FDI hiện nay đang lộ
rõ những bất cập lớn. Chính sách hiện nay thay vì quan tâm nhiều hơn tới
doanh nghiệp trong nước thì lại đang giành ưu thế cho doanh nghiệp nước
ngoài. DN trong nước gần như bị bỏ quên hoặc đứng ngoài những chính sách ưu
đãi hiện nay.
Lẽ ra cần phải có chính sách hỗ trợ
phát triển song song giữa doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài
thì Việt
Phải thay đổi tư duy “quả mít”
Cho rằng chủ trương thu hút vốn đầu tư
nước ngoài bao giờ cũng cần nhưng phải lựa chọn thu hút thế nào để đảm bảo
hài hòa lợi ích các bên. Dễ nhận thấy, trước đây VN có lợi thế về tài
nguyên khoáng sản, về đất đai, nhưng chính sách thuế thì giai đoạn này khá
thoáng. Tài nguyên cũng cạn kiệt dần, những lợi thế tự nhiên dần
thu hẹp để đối trọng lại không còn cách nào khác phải chạy theo thỏa thuận và
ưu đãi. Đó là bất cập lớn.
Theo PGS.TSKH Nguyễn Văn Minh nếu muốn
hạn chế được quyền đòi hỏi của FDI trong bối cảnh này chỉ còn cách chỉ ra
được lợi thế của mình. Phải phân tích, đánh giá được lợi thế của mình. Phải
trả lời được câu hỏi tại sao họ lựa chọn VN? VN có lợi thế so sánh thế nào
với các nước ASEAN và TQ?
Đó là về mặt kỹ thuật. Về mặt chiến
lược cần phải có cái nhìn sâu rộng hơn. Tuyệt đối không nên bị choáng ngợp
bởi nguồn vốn các DN nước ngoài đầu tư vào. Đánh giá lợi ích cụ thể cho đất
nước, cho từng địa phương phải dựa trên tầm nhìn 5-10 năm. Đánh giá dựa trên
hiệu quả tổng thể cả về tác động tới xã hội, về sức lan tỏa tới nền kinh tế
và lao động để có cơ chế ưu đãi cho phù hợp.
Tức là ưu đãi phải đổi lại được những
lợi ích thực tế. Một là đội ngũ; hai là công nghệ; ba là doanh nghiệp phát
triển và bốn là hệ thống quản lý… Nếu không làm được như vậy, DN FDI vào ồ ạt
khi hết lợi thế sẽ rút đi ồ ạt cuối cùng cái VN được là ô nhiễm môi trường và
trở thành bãi rác thải công nghệ.
Theo ông Minh, có thể dễ dàng nhận thấy
ở VN các cơ quan quản lý địa phương đang mắc phải một nỗi sợ hãi vô hình. Sợ
hãi vì áp lực tăng trưởng GDP và sợ hãi vì áp lực thúc đẩy phát triển kinh tế
địa phương. Khi nỗi sợ quá lớn sẽ dễ mắc sai lầm trong thu hút đầu tư nước
ngoài. Khi mắc sai lầm sẽ phải chạy theo sai lầm hoặc phải mất thời gian rất
dài để khắc phục sai lầm đó. Điều này không khác nào đã đẩy các doanh nghiệp
trong nước vào thế khó, không thể cạnh tranh, phát triển được.
VN có thể học cách thu hút vốn từ Hàn
Quốc. Trong những năm có chủ trương phát triển công nghiệp hỗ trợ trong nước,
Hàn Quốc đã thành lập cả danh sách những ngành công nghiệp được ưu tiên kêu
gọi phát triển và đi cùng là những cam kết cụ thể. Ví dụ, DN FDI muốn đầu tư
vào công nghiệp ô tô, phải có cam kết 5 năm đầu tỉ lệ sản phẩm nội địa hóa
đạt 30%, 10 năm tiếp theo là 70%.
Vấn đề của VN lúc này là phải biết lựa
chọn và tận dụng thế mạnh để tập trung vào thế mạnh đó. Nhưng hiện nay, VN
vẫn chưa đủ dũng cảm và vẫn còn điều hành theo tư duy “quả mít”. Tức là khu
vực nào, lĩnh vực nào cũng là nền kinh tế mũi nhọn.
Ông Minh cho rằng, ngay lúc này cần
phải thay đổi tư duy, chính sách. Cơ bản vẫn là tạo được một môi trường cạnh
tranh bình đẳng dù chỉ ở mức tương đối. Bên cạnh đó, nhà nước phải có động
thái tích cực từ chính sách song song với ưu đãi phải có điều kiện buộc FDI
liên kết, thúc đẩy DN trong nước phát triển.
"Nếu cứ để DN trong nước tự bơi,
tỉ lệ hi sinh là rất cao khi đó tính tự chủ của nền kinh tế cũng bị đe dọa
nghiêm trọng", PGS.TSKH Nguyễn Văn Minh kết luận.
(Theo Đất Việt) Vũ
Lan ghi
|
Thứ Ba, 28 tháng 7, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét