GIẤC MƠ TRUNG HOA:
Cập nhật lúc 10:09
Những dự án khổng lồ của TQ nhằm
mục đích gì?
Các dự
án “cơ sở hạ tầng” khổng lồ, xuyên biên giới, băng qua các châu lục, nối kết
các nền kinh tế, văn hóa, tiểu vùng địa lý với nhau đang là tâm điểm trong
chính sách đối ngoại của Bắc Kinh dưới thời thế hệ lãnh đạo thứ 5.
Hiểu theo nghĩa phần cứng, đó là bến cảng, đường cao tốc, thủy điện,
đường ray, sân bay, đường dẫn cáp quang, băng truyền internet, v.v… Hiểu theo
nghĩa mềm, nó là các thể chế nền tảng hỗ trợ cho hoạt động thương mại, tiền
tệ-tài chính, các ngân hàng phát triển với các khoản đầu tư tại khu vực, v.v…
Nhiệm vụ của các loại cơ sở hạ tầng
này không chỉ mang về lợi nhuận mà còn tạo điểm kết nối giữa TQ như một trung
tâm với các vùng và quốc gia láng giềng “ngoại vi”. Tác động của những dự án
này rất lớn. Nhưng nó cũng đặt ra nhiều thách thức nếu muốn thiết lập thành
công. Vì thế, hiểu và đánh giá đúng quy mô, động lực và hệ quả của “chính
sách đối ngoại cơ sở hạ tầng” của Bắc Kinh là bước đi quan trọng đầu tiên để
có những khuyến nghị chính sách hợp lý.
Hai “con đường tơ lụa mới”
Vào tháng 10/2013, chủ tịch Tập Cận
Bình đã có bài phát biểu mang tính lịch sử trước Hạ viện Indonesia. Ngay từ
đầu chuyến công du của mình tại Đông Nam Á, ông Tập Cận Bình nhấn mạnh một
“cộng đồng TQ – ASEAN khăng khít với vận mệnh chung”. Cùng với đó là đề xuất
một “quan hệ đối tác hàng hải” trong nỗ lực nhằm xây dựng Con đường tơ lụa
trên biển thế kỷ 21.
Chủ tịch TQ nhấn mạnh mục tiêu của TQ
là “phá vỡ sự bế tắc trong liên kết” ở châu Á. Quan điểm này được đồng hành
bởi các dự án quy mô lớn, bao gồm các hải cảng dọc theo Ấn Độ Dương, các con
đường cao tốc, đường ống và đường sắt. Cốt lõi của bước đi này là nỗ lực có
tính toán để hình thành “Vành đai kinh tế con đường tơ lụa trên bộ” và “Con
đường tơ lụa trên biển thế kỷ 21”.
Được công bố tại Hội nghị thượng đỉnh
APEC 2014 tại Bắc Kinh, sáng kiến “Một vành đai, Một con đường” của TQ hướng
đến kết nối một vùng không gian địa lý xuyên qua Âu-Á. Lấy TQ ở vị trí trung
tâm, nó liên kết với các khu vực lân cận, bao gồm Trung Á, khu Viễn Đông của
Nga, Đông Nam Á, và cuối cùng là thị trường châu Âu.
Hỗ trợ tài chính cần thiết sẽ được
cung cấp bởi các thể chế tài chính do TQ dẫn đầu, đáng chú ý nhất là Quỹ Con
đường tơ lụa và Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng Châu Á (AIIB). Nhiệm vụ của
hai thể chế này là sử dụng các công cụ tài chính để tạo nên các “quan hệ đối
tác liên kết”. Trong số nhiều dự án đầy tham vọng là hệ thống đường ray cao
tốc 5.000 km mà khi hoàn thành sẽ kết nối hơn 20 quốc gia châu Á.
Đặt “khía cạnh cơ sở hạ tầng” thành
trung tâm, lãnh đạo TQ tiếp tục xúc tiến các kế hoạch trên phạm vi rộng lớn. Những
đề xuất ít được nhắc đến hơn đã và đang đi vào thực hiện như “Hành lang kinh
tế Trung Quốc – Pakistan” hay “Hành lang kinh tế Bangladesh - Trung Quốc - Ấn
Độ - Myanmar”. Mùa thu năm 2013, giới truyền thông khu vực chứng kiến Chủ
tịch Tập Cận Bình cùng đoàn tháp tùng tham gia vào một cuộc “mít-tinh ngoại
giao” không chỉ ở khắp châu Á mà còn vươn đến châu Âu.
|
Tập Cận Bình phát biểu trong chuyến thăm Indonesia,
tháng 10/2013. Ảnh: Xinhua
|
Điểm cao trào hiện tại của chiến dịch
trên là chủ đề “liên kết” của Tập Cận Bình được đặt vào chương trình nghị sự
của APEC, Thượng đỉnh Đông Á và Hội nghị thượng đỉnh G20 vào tháng 11/2014.
Điểm nhấn của các sự kiện hướng về một hướng: thảo luận và đưa ra các cách
thức tài trợ và thiết lập các hành lang vận tải xuyên khu vực mới cũng như
phát triển các tuyến đường thương mại mới.
Không phải lần đầu tiên cơ sở hạ tầng
được chú ý như một yếu tố quan trọng trong chính sách đối ngoại. Nhưng dưới
thời của Tập Cận Bình, đây trở thành “trọng tâm của các trọng tâm” của TQ.
Bước ngoặt trên không chỉ xuất phát từ các phát biểu chính thức và thay đổi
ưu tiên trong chính sách, mà còn từ các khoản tài trợ cam kết cho mục tiêu
này trong bối cảnh TQ từ một quốc gia nhập khẩu, sang một quốc gia xuất khẩu
“vốn và tư bản”.
Sự chuyển dịch này đặt ra một câu hỏi
quan trọng: Phải chăng đây nằm trong quá trình “lan tỏa ảnh hưởng” của Bắc
Kinh thông qua các dự án khổng lồ hay là thực tế nhu cầu của phát triển? Câu
trả lời thể hiện qua một bức tranh hỗn hợp: đọc các con số thống kê sẽ thiên
về vế hai, trong khi đó, phân tích chính sách đối ngoại TQ trong lựa chọn
“đại chiến lược” lại bổ sung cho quan điểm thứ nhất.
Vốn cho cơ sở hạ tầng: Cung và cầu
Trong những năm gần đây, sự đồng thuận
giữa các thiết chế tài chính và phát triển hàng đầu được hình thành và đều
thừa nhận nhu cầu cho phát triển cơ sở hạ tầng. Theo tính toán của
PricewaterhouseCoopers (PwC) năm 2014, các dự án liên quan đến vốn và cơ sở
hạ tầng toàn cầu dự tính sẽ đạt mức 9 nghìn tỷ USD mỗi năm vào năm 2025 (năm
2014 là 4 nghìn tỷ).
Các quốc gia châu Á, đặc biệt là TQ có
triển vọng dẫn đầu trong việc đầu tư và hấp thụ nguồn vốn này. Tổ chức OECD
trong nghiên cứu công bố 2014 ước tính khoảng trống đầu tư cơ sở hạ tầng toàn
cầu hiện nay là 70 nghìn tỷ USD đến năm 2030. Nghiên cứu của ADB năm 2009 ước
tính cần đến 8.000 tỷ để đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở châu Á trong vòng hơn 10
năm.
Hội nghị thượng đỉnh G20 ở Hàn Quốc
(năm 2010) cũng thảo luận về xu hướng tương tự, nổi bật trong chương trình
nghị sự phát triển G20, trong đó vấn đề cơ sở hạ tầng được ưu tiên hàng đầu.
Từ đó, vấn đề cơ sở hạ tầng tiếp tục được quan tâm trong các nhiệm kỳ tiếp
theo của các lãnh đạo G20; Úc với vai trò chủ tọa G20 vào tháng 11/2014 vừa
qua đã đề xuất sáng kiến “Trung tâm cơ sở hạ tầng G20”.
Ngoài các quốc gia châu Á và các nước
đang phát triển, IMF mới đây cũng thừa nhận rằng nhu cầu về cơ sở hạ tầng ở
các nền kinh tế phát triển cũng là một động lực chủ chốt trong sự tăng trưởng
toàn cầu trong những thập kỷ tới. Và làm thế nào để cung cấp tài chính cho
các dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng khổng lồ vẫn là một thách thức lớn cho các
nhà hoạch định chính sách – thách thức này đang được TQ tiếp cận bằng nhiều
hình thức khác nhau.
Sự chuyển dịch
vai trò của TQ trong hệ thống tài chính - tiền tệ thế giới là tiền đề đầu
tiên của Bắc Kinh. Nhờ thành quả
của hơn 35 năm chuyển đổi, kinh tế TQ đã có sự tăng trưởng ngoạn mục. Theo số liệu của IMF (năm2014), chỉ trong vòng 13 năm của
thế kỷ 21, tăng trưởng cộng
dồn GDP thực tế của Trung Quốc đạt mức kỉ lục 243%, trong khi đó
mức tăng cộng dồn của Mỹ và EU chỉ xoay quanh ngưỡng 20%. Sự chênh
lệch về tốc độ tăng trưởng này đem lại cho Trung Quốc vị trí nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới vào năm 2010 và năm 2014, TQ trở thành
quốc gia thứ hai sau Mỹ đứng vào hàng các quốc gia có GDP hơn 10.000 tỷ USD.
Sự tăng trưởng thần kỳ kết hợp với hàng loạt yếu tố khác như (i)
Mô hình tăng trưởng hướng ra xuất khẩu; (ii) Duy trì đồng bản tệ giá rẻ để hỗ
trợ xuất khẩu (qua đó đòi hỏi PBoC phải liên tục mua vào đồng USD dư thừa
trên thị trường nhằm giữ giá đồng NDT); (iii) Thặng dư của cán cân vốn qua
các chính sách thu hút vốn nước ngoài, v.v… khiến dự trữ ngoại tệ
của TQ tăng gấp 20 lần trong vòng 15 năm. TQ hiện là nước có dự trữ ngoại tệ
lớn nhất nhì thế giới với quy mô trên 3.800 tỷ USD.
Vào năm 2001 (năm TQ gia nhập WTO), dự trữ ngoại tệ của quốc gia
này chỉ vẻn vẹn 200 triệu USD. Như vậy bình quân mỗi năm dự trữ ngoại tệ của
TQ tăng thêm hơn 200 tỷ USD. Tuy nhiên, năm 2014, dự trữ ngoại tệ của TQ là 3.843 tỷ USD - chỉ tăng
thêm 23 tỷ USD - và lần đầu tiên xuất hiện tình trạng “xuất khẩu vốn ròng”.
Điều này cho thấy một phần lớn trong khoản dự trữ ngoại tệ của năm 2014 và
các năm trước đó đã được sử dụng cho các khoản đầu tư ra nước ngoài.
|
Hình: Dự trữ ngoại tệ của TQ 2000 – 2013
(tỷ USD). Nguồn: SAFE (các năm)
|
Với số vốn dự trữ ngoại tệ lớn, TQ cũng tỏ ra “mạnh tay” hơn
trong việc đầu tư ra nước ngoài qua hình thức FDI. Hiện các khoản đầu tư ODI của TQ xấp xỉ 760 tỷ
USD. Con số này tuy chỉ bằng 1/10 so với Mỹ, nhưng tốc độ và quy mô đầu tư
có sự tăng tốc nhanh chỉ trong thời gian ngắn. Một điểm đáng nói là trọng
điểm đầu tư của nước này. Nghiên cứu do Rand Corporation tiến hành chỉ ra các
cam kết của TQ liên quan đến các khoản tài trợ và khoản vay đặc nhượng ở nước
ngoài từ năm 2001 đến 2011 là 671 tỷ USD hầu như đều liên quan đến các dự án
về cơ sở hạ tầng.
|
Hình: Mục đích đầu tư ra nước ngoài của
các doanh nghiệp lớn TQ 2000 - 2011. Nguồn:VCES (2013)
|
Nhìn chung, mức độ tiết kiệm cao, sự thiếu hụt các kênh đầu tư
thay thế và dự trữ ngoại tệ lớn nhằm phục vụ cho các khoản đầu tư tiềm năng,
đi cùng với các giới hạn về tài chính từ phía các quốc gia khác là các yếu tố
giúp cho TQ lấn sân vào lĩnh vực và các đại công trình đòi hỏi nhiều tư bản.
Điều này đã thể hiện trong bối cảnh ngay cả khi thế giới đang trải qua khủng
hoảng tài chính – tiền tệ hồi năm 2008, các ngân hàng CDB, China Exim Bank
vẫn đầu tư vốn mạnh mẽ vào cơ sở hạ tầng tại TQ, châu Á và châu Phi. Hiện
giờ, với sự xuất hiện của các cơ chế tài chính do TQ khởi xướng, đầu tư hạ
tầng để tạo sự kết nối chặt chẽ giữa các thị trường lại càng trở thành điểm
nhấn trong chính sách mới của Bắc Kinh.
|
Hình: Quy mô vốn FDI của Trung Quốc ra
nước ngoài (tỷ USD). Nguồn: VCES (2013)
|
Nhiều nước sẵn sàng từ chối ‘ông
nhà giàu’ TQ
Sự trỗi
dậy của Trung Quốc về quân sự và những tranh chấp lãnh thổ-lãnh hải với khu
vực láng giềng khiến cho chính phủ các nước nghi ngại các dự án đầu tư sẽ
được dùng làm vũ khí chính trị.
Năm 2014,
vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài (ODI) của Trung Quốc đạt mức kỷ lục 102 tỷ
USD (ước tính), tăng 11,3% so với năm trước. Con số này giúp Trung Quốc trở
thành một trong những nhà đầu tư lớn nhất thế giới. Tuy vậy, không phải bất
kỳ sáng kiến hợp tác kinh tế, kế hoạch đầu tư, viện trợ hay cho vay nào của
Trung Quốc cũng được chào đón và chấp nhận. Một nghịch lý trong cách thức thế
giới tương tác với “ông nhà giàu”: ngay cả khi Bắc Kinh mang tiền tỷ đầu tư,
nhiều quốc gia cũng không mấy mặn mà.
Mô hình “đầu tư Trung Quốc”
Sau khủng hoảng nợ công châu Âu năm
2010, thế giới chứng kiến làn sóng bùng nổ đầu tư của Trung Quốc ra bên
ngoài. Trong giai đoạn 2005 – 2013, Trung Quốc đã đầu tư tổng cộng 781,5 tỷ
USD. Trung Quốc hiện nay đã trở thành nước nhận đầu tư lớn thứ hai và nước đi
đầu tư lớn thứ ba thế giới.
Hình: Tổng vốn ODI của Trung Quốc
2005 – 2013 (tỷ USD). Nguồn: Financial Time (2014)
Được thành lập từ năm 1994 thuộc sở
hữu của chính phủ, nhưng khủng hoảng 2008 mới là cơ hội để Ngân hàng Phát
triển Trung Quốc (CDB) trỗi dậy. Tính đến cuối năm 2011, CDB đã cho vay tổng
cộng 5.520 tỷ Nhân dân tệ, với nhiều khoản đầu tư khổng lồ vào lĩnh vực năng
lượng tại các châu lục. Tại Trung Á, công ty Turkmengaz của Turkmenistan đang
được vay 4 tỷ USD. Hai công ty năng lượng lớn nhất của Nga là Rosneft và
Transneft được vay 20 tỷ USD. Tại Nam Mỹ, công ty Bandes của Venezuela đã
được vay tổng cộng 28,6 tỷ USD. Trong khi đó Petrobas của Brazil được vay 10
tỷ USD và Bộ Tài chính Ecuador được vay 1 tỷ USD.
Với việc World Bank kết thúc năm tài
khóa 2012 với số tiền cho vay 136,3 tỷ USD, ADB cho vay 71,4 tỷ USD, thì các
khoản vay đến hết tháng 3/2012 trị giá 220 tỷ USD đã đưa CDB vào hàng ngũ các
nhà vô địch ẩn danh. Một cuộc đua có thể ví von như một cuộc cạnh tranh của
các ngân hàng phát triển trên thế giới.
Trung Quốc lặng lẽ tham gia
cuộc đua đầu tư và tài trợ toàn cầu, để rồi giành được những lĩnh vực đầu tư
béo bở. Nhưng đây chưa phải là đỉnh sóng. Tháng 6/2014, CDB tiếp tục kí với
Lloyds Bank một thỏa thuận khung để các doanh nghiệp Trung Quốc đầu tư vào
lĩnh vực năng lượng và cơ sở hạ tầng của Anh. Trung Quốc cam kết với Anh rằng
đến năm 2025, nước này sẽ đầu tư vào đảo quốc 105 tỷ bảng Anh (tương đương
hơn 150 tỷ USD).
Trước khủng hoảng 2010, đầu tư của
Trung Quốc chủ yếu tập trung vào các nước đang phát triển nhằm tìm kiếm năng
lượng-khoáng sản và vào các nước phát triển nhằm tìm kiếm tài sản chiến lược.
Tuy nhiên, hiện nay đầu tư của Trung Quốc vào các nước phát triển đã tập
trung vào rất nhiều các lĩnh vực, trong đó năng lượng vẫn là một trọng điểm. Hiện
nay gần 50% vốn ODI của Trung Quốc tập trung vào lĩnh vực năng lượng; tiếp đó
là GTVT 15,5% và khai khoáng 13,3%.
|
Hình:
Phân bổ vốn ODI Trung Quốc theo ngành 2005 – 2014 (%). Nguồn: VCES tính
toán theo số liệu The Heritage Foundation (2015)
|
Mặc dù vốn đầu tư của Trung Quốc đang
là “phao cứu sinh” đối với nhiều chính phủ để giải quyết bài toán tăng trưởng
chậm lại, nhưng vốn ODI của Trung Quốc cũng để lại nhiều vấn đề cho cả hai
nhóm nước phát triển và đang phát triển. Đối với các nước phát triển – chẳng
hạn EU – nguồn vốn ODI có thể bù đắp cho mức sụt giảm đầu tư lớn (trung bình
sụt giảm 2% GDP trong giai đoạn 2010 – 2012), nhưng cũng tạo ra một EU đầy
chia rẽ và mâu thuẫn gia tăng.
Thứ nhất, các khoản đầu tư của Trung Quốc vào
cơ sở hạ tầng làm suy yếu Quỹ châu Âu về Cơ sở Hạ tầng (Quỹ Juncker) và những
nỗ lực trong tương lai nhằm thúc đẩy sự ra đời của một Ngân hàng Đầu tư Cơ sở
hạ tầng Châu Âu (EIIB). Thay vào đó, các nước này lại bị cuốn vào một AIBB
với các dự án nằm ở châu Á.
Thứ hai, hơn một nửa các khoản đầu tư của
Trung Quốc do các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) thực hiện, điều này làm dấy
lên những lo ngại về an ninh và bí mật công nghệ. Theo số liệu của ECFR, năm
2011 có 66,2% dự án đầu tư của Trung Quốc tại EU do DNNN thực hiện. Đến cuối
năm 2013, trong tổng số 92,7 tỷ USD vốn giải ngân của Trung Quốc tại EU, có
43,9% do DNNN thực hiện; 42,2% là do các Cty TNHH, 6,2% là cty cổ phần hữu
hạn, 2.2% các cty hợp doanh và 2% là doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc tiến
hành.
Thứ ba, mặc dù Trung Quốc nhanh chóng tìm
kiếm được các thị trường đầu tư tại các nước phát triển, nhưng vấn đề tiếp
cận và thâm nhập thị trường Trung Quốc lại là một bài toán khó đối với các
công ty nước ngoài. Trong đó nổi lên hai vấn đề là bảo hộ sở hữu trí tuệ (77%
công ty châu Âu gặp phải vấn đề này) và vấn đề tiếp cận tài chính (66% doanh
nghiệp vừa và nhỏ châu Âu coi đây là thách thức lớn nhất khi đầu tư tại Trung
Quốc).
Tại sao nhiều nước quan ngại “tiền của Trung
Quốc”
Đối với các nước đang phát triển, vốn
ODI của Trung Quốc thường đem đến các phản ứng dữ dội do ít chú ý đến môi
trường, cơ hội việc làm của dân bản địa, vấn nạn tham nhũng và hiệu ứng
lan tỏa kĩ thuật kém do công nghệ lạc hậu.
Bảng: Một số dự án đầu tư của Trung Quốc bị từ chối/hoãn/xem
xét lại. Nguồn: Tác giả tổng hợp từ các nguồn khác nhau từ Financial Times,
The Wall Street Journal, Bloomberg Business, v.v
Tên dự án/nước
|
Lĩnh vực
|
Số tiền đầu tư (USD)
|
Lý do được các nước sở tại nêu ra)
|
Thành phố cảng mới Colombo/Sri Lanka
|
Xây dựng cơ sở hạ tầng
|
1,5 tỷ
|
Không đáp ứng tiêu chuẩn về môi trường (năm 2015)
|
Nhà máy thủy điện Myitsone/ Myanmar
|
Năng lượng
|
3,6 tỷ
|
Tác động tiêu cực đến môi trường, xã hội (năm 2011)
|
Mỏ đồng Letpadaung/ Myanmar
|
Khai thác khoáng sản
|
1 tỷ
|
Tác động tiêu cực đến môi trường, xã hội (quyền lao động)
(năm 2014)
|
Đường sắt (Vân Nam- Rakhine)/ Myanmar
|
Cơ sở hạ tầng
|
20 tỷ
|
Tác động tiêu cực đến môi trường, xã hội; an ninh quốc gia
(năm 2014)
|
Mua công ty OZ Minerals (M&A)/Australia
|
Khai thác khoáng sản
|
2,26 tỷ
|
An ninh quốc gia (năm 2009)
|
Đầu tư vào Rio Tinto/ Australia
|
Khai thác mỏ
|
19,5 tỷ
|
Điều hành quản lý không tốt (năm 2009)
|
Mua công ty Sundance Resources (M&A)/Australia
|
Khai thác khoáng sản
|
1,5 tỷ
|
Công ty Trung Quốc huy động vốn chậm (năm 2012)
|
Đầu tư vào Equinox Minerals Ltd/Canada
|
Khai thác khoáng sản
|
5,9 tỷ
|
Tác động tiêu cực đến môi trường (năm 2011)
|
Đường sắt cao tốc (Mexico City-Queretaro)/Mexico
|
Xây dựng cơ sở hạ tầng
|
3,5 tỷ
|
Công ty TQ không minh bạch trong đấu thầu (năm 2014)
|
Mỏ dầu Bắc Azadegan/Iran
|
Khai thác mỏ
|
2,5 tỷ
|
Công ty TQ trì hoãn thực thi nghĩa vụ (năm 2014)
|
Đập thủy điện Stung Cheay Areng/ Campuchia
|
Năng lượng
|
400 triệu
|
Tác động tiêu cực đến môi trường, xã hội (năm 2015)
|
Khu nghỉ dưỡng World Shine/Việt Nam
|
Xây dựng cơ sở hạ tầng
|
250 triệu
|
An ninh quốc gia (năm 2014)
|
Đường sắt Montero-Bulo Bulo/Bolivia
|
Xây dựng cơ sở hạ tầng
|
250 triệu
|
Công ty TQ trì hoãn thực thi thỏa thuận (năm 2015)
|
Mạng lưới điện quốc gia / Philippines
|
Xây dựng cơ sở hạ tầng
|
…
|
An ninh quốc gia (năm 2015)
|
|
Bảng trên miêu tả một số dự án
tiền triệu, tiền tỷ của Trung Quốc ra nước ngoài từ năm 2009 đến tháng 3/2015
bị đưa ra “xem xét lại”. Có ba nhóm lý do chính được chính phủ các nước đưa
ra:
Mối lo ngại đầu tiên là các vấn đề
môi trường và xã hội. Cơ sở hạ tầng, khai khoáng và năng lượng là những mục
đầu tư chính của Trung Quốc, đặc biệt là tại các nước châu Phi và châu Á. Mô
thức thường thấy là nhà đầu tư Trung Quốc rót tiền, cung cấp cả máy móc thiết
bị lạc hậu cùng công nhân. Điều này gây ra lo ngại từ các nước sở tại về ô
nhiễm môi trường, nạn thất nghiệp và vi phạm quyền lao động.
Chẳng hạn, chính phủ Myanmar đã
đóng băng và hủy ba dự án gồm kế hoạch thủy điện Myitsone (3,6 tỷ USD), khai
thác mỏ đồng Letpadaung (1 tỷ USD) và dự án đường sắt Vân Nam-Rakhine (20 tỷ
USD). Mới đây nhất, đầu 2015, tham vọng “thành phố cảng” mới ở Colombo mang
dấu ấn Bắc Kinh trị giá 1,5 tỷ USD cũng bị chính phủ Sri Lanka xét duyệt lại
vì e ngại nhà thầu Trung Quốc không đáp ứng được tiêu chuẩn về môi trường.
|
Mô
hình thủy điện Myitsone, một trong 3 dự án đã bị Chính phủ Myanmar hủy
bỏ. Ảnh:Wikipedia
|
Lý do thứ hai khiến
Trung Quốc hay bị từ chối là việc các công ty nước này thiếu công khai, minh
bạch trong quá trình đấu thầu. Tháng 11/2014, Mexico hủy dự án xây dựng tuyến
đường sắt cao tốc trị giá 3,75 tỷ USD của Trung Quốc do nghi ngại về tính
công khai, minh bạch và tổ chức đấu thầu lại.
Ngay cả khi đã đạt được các thỏa thuận,
nhà thầu Trung Quốc cũng thường xuyên trì hoãn, không làm đúng theo cam kết.
Việc Iran tuyên bố hủy hợp đồng trị giá 2,5 tỷ USD với Tập đoàn Dầu khí quốc
gia Trung Quốc (CNPC) do CNPC trì hoãn thực thi các nghĩa vụ liên quan là một
thí dụ. Cũng do không đồng ý với cách thức “quản trị” của công ty Chinalcon
(Trung Quốc) mà Australia đã từ chối khoản đầu tư trị giá 19,5 tỷ USD vào tập
đoàn khai thác mỏ Rio Tinto.
Sự trỗi dậy của Trung Quốc về quân sự
và những tranh chấp lãnh thổ-lãnh hải với khu vực láng giềng khiến cho chính
phủ các nước nghi ngại các dự án đầu tư sẽ được dùng làm vũ khí chính trị.
Đầu năm 2009, đề nghị mua toàn bộ công ty OZ Minerals của Trung Quốc, bao gồm
mỏ Prominent Hill, trong phạm vi vùng thử vũ khí Woomera của quân đội
Australia bị từ chối. Đầu năm 2015, Bộ trưởng Năng lượng Philippines
tuyên bố ngừng dự án Trung Quốc tham gia vận hành kinh doanh mạng lưới điện
quốc gia của nước này do nguyên nhân an ninh quốc gia.
|
TS. Trương Minh Huy Vũ –
TS. Phạm Sỹ Thành
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét