20:21
Bất ổn tài chính
Từ
lỗ hổng chính sách đến “cố ý làm trái”
SGTT.VN - Khi những biểu hiện lâm sàng của con
bệnh – hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam bộc phát, với bao khó khăn về thanh
khoản, nợ xấu… Chính phủ quyết định phải tái cấu trúc nó.
Quá
trình trên chưa đi được tới đâu thì may quá, nhiều vụ án liên quan đến lĩnh
vực này lộ ra, hé mở căn nguyên từ vi mô đến vĩ mô, mà ở đó, những “kinh
doanh trái phép”, “cố ý làm trái”, “lừa đảo”… đã được bức màn đan từ nhiều
sợi chỉ sở hữu chéo chằng chịt che chắn, hoặc đóng vai trò công cụ – phương
tiện thực hiện hành vi.
Các
quy định bảo đảm an toàn hoạt động đối với ngân hàng thương mại cổ phần hiện
nay ở nước ta gồm vốn pháp định và tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu; giới hạn cấp
tín dụng; giới hạn đầu tư – góp vốn cổ phần; đảm bảo khả năng chi trả; phân
loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro. Bằng sở hữu chéo, các quy định này dễ
dàng bị vô hiệu hoá!
Từ
lúc nào và vì sao chúng ta cảm thấy bình thường trước lượng thông tin dày đặc
về việc ngân hàng này ra đời, ngân hàng kia mở chi nhánh rộng khắp, rồi thì
mua mua bán bán ngân hàng với nhau để đến lúc này mới giật mình, Việt Nam với
quy mô nền kinh tế nhỏ bé như thế mà có tới gần 50 ngân hàng thương mại (không
kể nước ngoài và liên doanh) với cấu trúc sở hữu như vậy?
Cho
dù vấn đề không ở con số ít hay nhiều, thì khó kiếm ở đâu ra ở ta ngân hàng
nhỏ mà mạnh. Những ngân hàng nhỏ hiện nay nằm trong số 13 ngân hàng theo mô
hình nông thôn được ngân hàng Nhà nước cho phép “nâng cấp” lên thành ngân
hàng thành thị. Nguyên thuỷ, chúng chỉ có vốn chừng vài chục đến vài trăm tỉ
đồng, sau khi “lột xác” đã phải lao đầu vào cuộc đua tăng vốn điều lệ lên 3.000
tỉ đồng cùng các đàn anh đàn chị. Một cuộc đua bằng mọi giá nên cái giá phải
trả cho việc quản trị, nhất là quản trị rủi ro chưa tương thích, dễ dàng bị
bỏ qua.
Nếu
như sự tham gia của các ngân hàng thương mại nhà nước vào các ngân hàng
thương mại cổ phần những năm đầu thập niên 1990, mang ý nghĩa “tái cơ cấu”
các ngân hàng cổ phần này một cách thuần khiết, thì sự ra đời và gia nhập của
các tập đoàn kinh tế nhà nước với tấm thẻ bài “kinh doanh đa ngành”, bức
tranh sở hữu ngân hàng trở nên đa sắc hơn. Rồi thì doanh nghiệp tư nhân cũng
có ngân hàng. Rồi thì ngân hàng này mua cổ phần ở ngân hàng kia. Cái sự chấp
nhận không mạnh trong tình thế “phóng lao” như nói trên đã mang màu sắc chủ
động vì những động cơ khác.
Việc
Việt Nam mở cửa – gia nhập WTO đã mang lại niềm hứng khởi, cho tới lúc này có
thể nói là thái quá, đối với tương lai nền kinh tế cũng như khả năng nhập
cuộc của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực vốn được cho là nhạy cảm này
(vậy nên mới có làn sóng nhà đầu tư trong nước đón đầu cơ hội chuyển nhượng
lại). Nhưng nếu không có sự bùng phát của thị trường chứng khoán thì đã không
có cánh cửa lớn cùng lực đẩy vô hình đẩy người người đầu tư vào chứng khoán
ngân hàng.
Trong
suốt thời gian dài, cổ phiếu các ngân hàng đứng ở hàng topten và cơn sốt đó
đã làm một bộ phận “thức thời” trở nên giàu có. Nếu như sự huy động vốn dễ
dàng dưới danh nghĩa ngân hàng trên thị trường chứng khoán khiến các doanh
nghiệp mua cổ phiếu ngân hàng như một hoạt động đầu tư tài chính, thì sự tăng
trưởng gần như liên tục của tổng lượng tiền gửi vào hệ thống ngân hàng trong
những năm qua, cùng với sự tăng trưởng nóng của thị trường bất động sản khiến
doanh nghiệp có động cơ sở hữu và sở hữu nhiều ngân hàng nhằm tận dụng quyền
uy ông chủ rút vốn huy động trong dân để phục vụ cho hoạt động đầu tư nóng
của chính mình. Như nghiên cứu “Cải cách cơ cấu vì mục tiêu tăng trưởng, công
bằng và chủ quyền quốc gia” của các tác giả thuộc chương trình giảng dạy kinh
tế Fulbright đã chỉ ra, “Thoạt nhìn sở hữu chéo hiện nay không có bất kỳ một
lý do chiến lược rõ ràng nào, nhưng nhìn vào cấu trúc sở hữu và báo cáo tài
chính của các ngân hàng thì có thể thấy việc sở hữu chéo là để tạo điều kiện
cho vay theo quan hệ, cũng như lách các giới hạn cho vay của ngân hàng Nhà
nước”. Còn theo đánh giá của nguyên chủ tịch hội đồng quản trị một ngân hàng
thương mại lớn: “Mục tiêu không còn là kinh doanh ngân hàng nữa mà ngân hàng
trở thành đối tượng để kinh doanh. Ngân hàng trở thành hàng hoá giống như là
những hàng hóa khác. Họ mua rồi thấy được giá thì bán hay dùng ngân hàng để
đi thâu tóm ngân hàng khác, doanh nghiệp khác”.
Ông
Nguyễn Quang A, nguyên chủ tịch hội đồng quản trị VP Bank, người đứng mũi
chịu sào cứu ngân hàng này khi nó trên bờ vực phá sản do nợ xấu thời kỳ 1994
– 1995 kể hồi ấy những người sáng lập VP Bank – vốn là những ông chủ doanh
nghiệp, chỉ coi, lấy ngân hàng làm “công cụ” để hỗ trợ cho việc kinh doanh
của doanh nghiệp mình, nên cho nhau vay rất lớn, rồi không thu hồi được. Giả
như ông A và bạn bè, những tay nghiệp dư liều mạng, tự mình dám vận hành VP
Bank nên mới hành động sai lầm như vậy thì đến nay, lỗ hổng nhân lực không
còn quá lớn khi các ngân hàng đã có thể thuê CEO nước ngoài. Lỗ hổng đang đến
từ những động cơ trục lợi, với sự hỗ trợ của thực tế bất cân xứng thông tin
giữa người uỷ quyền và người thừa hành gây ra rủi ro đạo đức. Trước đây, VP Bank
là một vấn đề riêng lẻ, thì giờ đây, vấn đề đã mang tính hệ thống mà cấu trúc
sở hữu càng làm cho tình hình phức tạp. Nguy hiểm hơn, hệ thống thanh tra
kiểm soát trong thời gian dài tỏ ra bất lực trong việc phát hiện vi phạm hay
lách luật (mà các vi phạm liên quan đến sở hữu chéo là điển hình), như thừa
nhận của chính thống đốc ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Bình khi trả lời chất
vấn của đại biểu tại Uỷ ban thường vụ Quốc hội vừa rồi.
Nếu
lợi nhuận và lợi ích “đen” từ ngân hàng thúc đẩy việc sở hữu, sở hữu chéo
ngân hàng thì điều gì tạo ra lợi nhuận và lợi ích ấy? Chúng ta đang dán mình
dính chặt vào một mô hình tăng trưởng “kiểu Việt Nam” – theo bề rộng, mà ở đó
tăng trưởng chủ yếu dựa vào sự gia tăng các nguồn lực đầu vào, đặc biệt là sự
thâm dụng vốn đầu tư nhưng hiệu quả sử dụng vốn lại thấp. Một mô hình kinh tế
như vậy làm lợi cho hệ thống ngân hàng, thúc đẩy sự bành trướng một cách
không có động cơ tự kiểm soát vì hệ thống này đang cấp tới khoảng 90% vốn cho
toàn nền kinh tế. Đồng thời, nó cũng tạo gánh nặng quá tải cho hệ thống. Vì
vậy mà rủi ro sẽ tăng cao khi chạy theo cái lợi và khả năng quản trị không đuổi
kịp, bằng chứng rõ nhất là tỷ lệ nợ xấu tăng cao. Đồng tiền có được dễ dãi
thì dễ bị sử dụng thiếu cẩn trọng.
Dọn
dẹp lại hệ thống ngân hàng từ “tử huyệt” sở hữu chéo hay những “yếu huyệt”
khác cần phải được đặt trong tổng thể tái cơ cấu nền kinh tế. Ở đó, tái cơ
cấu hệ thống ngân hàng thương mại cần phải đặt trong mối liên hệ với tái cơ
cấu đầu tư công và tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước. Nếu không, nếu vẫn đổ xô
vào đầu tư, nhất là khu vực doanh nghiệp nhà nước, trong khi không tăng được
hiệu quả sử dụng vốn, chính áp lực chính trị sẽ tạo áp lực tiếp tục bơm vốn
và vô hiệu hoá nỗ lực phân bố nguồn lực cẩn trọng, công bằng.
Tăng
trưởng lệ thuộc vào đầu tư, giải cơn khát đầu tư bắt đầu từ việc giải phóng
mình khỏi cơn say tăng trưởng bằng mọi giá, nhất là khi sự tăng trưởng đó bị
đánh giá là không bền vững, phải đánh đổi với lạm phát, tổn hại về môi
trường.
(Theo SGTT) Nguyên Lê
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét