Dự thảo Luật đặc khu:
Cho thuê đất 99 năm: "Đại
bàng" ba đời xây ổ
Cập
nhật lúc 08:45
Quy định thời hạn cho thuê đất kéo dài lên
đến 99 năm, hoàn toàn có thể biến chủ thuê đất trở thành “lãnh chúa” trong
địa hạt của mình.
Shannon là một
sân bay cỡ vừa tại Ireland, là trạm trung chuyển và tiếp nhiên liệu cho nhiều
chuyến bay xuyên Đại Tây Dương từ sau Chiến tranh Thế giới thứ Hai. Thế nhưng
với công suất máy bay ngày càng tăng, số chuyến trung chuyển ngày càng giảm
dần, kéo theo sự suy tàn của khu vực này. Để cứu vãn tình hình, giám đốc
Shannon đề xuất xây dựng khu vực sản xuất có ưu đãi thuế quanh sân bay. Năm
1959, khu kinh tế mở Shannon ra đời, là “Đặc khu kinh tế” (SEZ) đầu tiên trên
thế giới và là hình mẫu cho các SEZ phát triển mạnh mẽ ở châu Á.
Nhưng đó là câu
chuyện của 60 năm trước. Hiện nay, Quốc hội vẫn đang thảo luận rất gay gắt về
dự luật Luật Đơn vị hành chính kinh tế đặc biệt Vân Đồn, Bắc Vân Phong và Phú
Quốc, và dự kiến sẽ thông qua ngay trong kỳ họp này. Trong một bản dự thảo
chi tiết gồm 85 điều, thứ đọng lại với người đọc vẫn chủ yếu là những ưu đãi,
đặc biệt liên quan đến thuế má và đất đai.
Về thuế, ở đặc
khu thuế doanh nghiệp chỉ còn 10% (so với mức 20% thông thường), miễn thuế
thu nhập cá nhân trong thời gian 05 năm (không quá năm 2030), và giảm 50% số
thuế thu nhập cá nhân phải nộp trong các năm tiếp theo, miễn tiền thuê đất vô
thời hạn hoặc tối đa 30 năm…Đây là những ưu đãi vô cùng hấp dẫn nếu so sánh
với cách chính sách hiện hành.
Thế nhưng ưu
đãi về thuế và đất đai không phải là không có vấn đề. Cho phép đặc khu thực
hiện ưu đãi vượt khung, liệu có công bằng với 63 tỉnh thành khác cũng đang
rất nỗ lực để thu hút đầu tư nước ngoài, nhưng không được phép tạo cơ chế như
vậy?
Hơn nữa, thuế
luôn là nguồn chính cho ngân sách địa phương. Một khi nguồn thu này ở đặc khu
không còn hoặc rất không đáng kể, ngân sách trung ương chắc chắn sẽ phải bù
đắp thiếu hụt. Trong khi đầu tư vào đặc khu là canh bạc vô cùng tốn kém. Bộ
Tài chính ước tính ba đề án đặc khu cần tới 1,57 triệu tỷ đồng (khoảng 70 tỷ
USD), Vân Đồn cần 270 nghìn tỷ (2018-2030), Bắc Vân Phong 400 nghìn tỷ đồng
(2019-2025), và Phú Quốc 900 nghìn tỷ (2016-2030). Đây là con số khổng lồ, và
nếu đặt trong bối cảnh ngân sách trung ương năm nào cũng thiếu hụt, tiền ở
đâu để hiện thực hoá tham vọng này?
Chính vì thế,
luật đặc khu không thể chỉ chăm chăm nhìn vào ưu đãi. Đặc khu phải thực sự
đảm nhiệm đúng vai trò mà Quốc hội kì vọng: trở thành “vườn ươm thể chế”, nơi
nhà nước có thể thử nghiệm cách thức quản trị và chính sách mới, khuyến khích
đầu tư các công nghệ của tương lai, tạo bệ phóng tăng trưởng cho các miền mà
nó đại diện (Vân Đồn phía Đông Bắc, Bắc Vân Phong ở Nam Trung Bộ, và Phú Quốc
ở Nam Bộ). Muốn làm được như vậy, đặc khu phải thu hút được các doanh nghiệp
trong lĩnh vực ưu tiên đặt trụ sở hoạt động ở đó. Nhưng cho đến nay, dường
như chưa có doanh nghiệp công nghệ cao, logistics nào tỏ ý định đầu tư tại
các đặc khu.
“Nồi nào vung
nấy”, cách thức ưu đãi sẽ thu hút những đối tượng phù hợp. Tập trung ưu đãi
về thuế và đất, sẽ chỉ thu hút được casino, khách sạn, nhà nghỉ…hay là trở
thành thiên đường thuế như các hòn đảo vùng Trung Mỹ. Xây dựng đặc khu, suy
cho cùng, vẫn là bài toán phát triển lợi ích kinh tế cho quốc gia trong dài
hạn. Mong muốn của nhà nước tạo ra hiệu ứng lan toả từ đặc khu để làm đòn bẩy
phát triển là chính đáng. Thế nhưng những gì chúng ta thấy ngay cả khi dự
luật này chưa được thông qua chỉ là những cơn sốt đất. Một khi sốt đất đi
qua, với diện tích hạn chế, chúng ta lấy đâu ra đất để phát triển công nghệ
cao, logistics, cơ khí chính xác, công nghệ thông tin…như kỳ vọng?
Một lo ngại nữa
là quy định thời hạn cho thuê đất kéo dài lên đến 99 năm, hoàn toàn có thể
biến chủ thuê đất trở thành “lãnh chúa” trong địa hạt của mình. Cần phải nhớ
rằng với tiềm lực tài chính lớn, các tập đoàn đa quốc gia – thậm chí được hỗ
trợ bởi chính phủ nước ngoài – có đủ khả năng tích góp một lượng lớn đất đai
ở đặc khu, đủ để họ tạo ra “quyền lãnh thổ” trên thực tế, tạo ra những vấn đề
rất khó xử lý về an ninh – quốc phòng.
Đây là câu
chuyện đã diễn ra ở các nước châu Phi và chuỗi đảo dọc “con đường tơ lụa trên
biển” như Sri Lanka và Maldives, khi các công ty Trung Quốc thu mua/thuê lại
một lượng lớn đất đai. Đọc dự thảo Luật trình Quốc hội, tôi chưa thấy quy
định nào có thể ngăn ngừa được rủi ro này. Chúng ta mở đặc khu với tâm thế
cởi mở, tự do, hướng ra thế giới, nhưng rõ ràng cũng cần phòng ngừa những bất
trắc có thể xẩy ra. Cùng thời điểm Quốc hội đang thảo luận về ba đặc khu,
cách Vân Đồn chưa đầy 200 hải lý, Trung Quốc cũng đang nỗ lực biến đảo Hải
Nam trở thành “đặc khu kinh tế”. Định vị vị trí của các đặc khu chúng ta như
thế nào trong bối cảnh đó là một vấn đề cần xem xét kĩ.
Như vậy, điều
cần tập trung trong Luật đặc khu không phải ưu đãi kiểu “quy ra thóc” như
hiện tại, mà cần nhấn mạnh vào thay đổi những thể chế vốn kìm hãm phát triển
kinh tế ở trong nước. Đó là cơ chế quản lý hành chính công rườm rà, kém hiệu
quả, thiếu minh bạch; nền kinh tế thị trường chưa được tôn trọng với sự can
thiệp quá sâu của nhà nước bằng chính sách và doanh nghiệp quốc doanh; hay
môi trường kinh doanh chưa thông thoáng, chưa tạo điều kiện để doanh nghiệp
phát huy tối đa năng lực của mình trong thời đại internet và toàn cầu hoá.
Nhưng nói như một số đại biểu tại nghị trường, các quy định về thể chế trong
dự luật dường như chưa tạo ra được bước đột phá cần thiết, khi phần lớn chỉ
trích dẫn các luật hiện hành như Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách, hay Luật
Quản lý công chức.
Kể từ khi SEZ
Shannon ra đời, đã có hơn 3000 đặc khu kinh tế dưới hình hài khác nhau xuất
hiện trên thế giới. Thế nhưng không phải mô hình nào cũng thành công, và
dường như tỷ lệ thành công ngày càng thấp khi quá trình toàn cầu hoá kinh tế
được đẩy mạnh, xoá nhoà những lợi thế từng là đặc thù của SEZ như mức thuế ưu
đãi hay vị trí lý tưởng. Bởi thế, nhà nước không nên kì vọng quá nhiều về
thành công về mặt kinh tế của các đặc khu, mà nhấn mạnh vào tính thử nghiệm
thể chế của nó. Khi ít chịu áp lực thành công về kinh tế, nhà nước cũng không
cần phải thu hút đầu tư bằng mọi giá và với mọi đối tượng tại các đặc khu. Tự
thân các Vân Đồn, Bắc Vân Phong, và Phú Quốc đều là mỏ vàng, đừng để dự luật
đặc khu lại hợp pháp hoá việc “bán rẻ như cho” những mỏ vàng đó.
(Theo VietNamNet) Nguyễn Khắc Giang
|
Thứ Hai, 4 tháng 6, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét