Chi 19.000 tỷ đồng đào than/năm: Còn
than không?
Cập nhật lúc 08:30
(Doanh nghiệp) - Ở Việt Nam, hầu hết trữ lượng các loại
khoáng sản đều không có đánh giá về hiệu quả kinh tế, hoặc chỉ được đánh giá
rất mơ hồ.
Trữ lượng than
ít, hiệu quả không cao
Quy hoạch phát triển ngành than đến năm 2020 có xét đến 2030
mới được ban hành năm 2016 xác định, nhu cầu sử dụng than của Việt Nam thời
gian tới liên tục tăng. Cụ thể đến năm 2020 là 86,4 triệu tấn, năm 2030 lên
256 triệu tấn.
Quy hoạch cũng cho biết sẽ tập trung thăm dò nâng cấp tài nguyên
than, tăng tiến độ các đề án thăm dò mới tại Bể than Đông Bắc, Bể than sông
Hồng, các mỏ than nội địa khác và đề án thăm dò than bùn…
Đặc biệt nhu cầu vốn đến năm 2030 ngành than cần là 96.566 tỷ
đồng vốn đầu tư, bình quân là 19.313 tỷ đồng/năm. Giai đoạn 2021-2030 vốn đầu
tư lên tới 172.437 tỷ đồng để duy trì và mở rộng sản xuất.
Trước thông tin trên, trao đổi với Đất Việt, TS Nguyễn Thành Sơn
- nguyên Giám đốc Ban quản lý các dự án than đồng bằng sông Hồng thuộc Tập
đoàn Công nghiệp than - khoáng sản Việt Nam (Vinacomin) bày tỏ nhiều lo ngại.
Theo TS Sơn, nếu đánh giá đúng theo các tiêu chuẩn về trữ lượng
than đã được Bộ TN-MT ban hành, tương tự như tiêu chuẩn của Mỹ thì trữ lượng
than của Việt Nam hiện nay bằng không.
Theo tiêu chuẩn mới, chỉ phê duyệt trữ lượng nếu vỉa than
(hay khu vực chứa than, mỏ than, hay khoáng sản than) đó nếu được khai thác
thì phải có hiệu quả kinh tế tại thời điểm phê duyệt.
“Ở Việt Nam, hầu hết trữ lượng của các loại khoáng sản đều không
có đánh giá về hiệu quả kinh tế, hoặc chỉ được đánh giá rất mơ hồ về hiệu quả
kinh tế. Việc phê duyệt cũng chỉ căn cứ chủ yếu vào các thông tin về mặt địa
chất”, TS Sơn khẳng định.
Đặc biệt, TS Nguyễn Thành Sơn hết sức chú ý đến khoản tiền hơn
19.000 tỷ đồng mỗi năm đầu tư để duy trì và mở rộng ngành than.
Ông Sơn cho rằng từ sau năm 1995, nhà nước hầu như đã không đầu tư
vào ngành than bằng tiền từ ngân sách. Từ khi Tập đoàn Công nghiệp Than -
Khoáng sản Việt Nam (TKV) được thành lập đến nay, hàng năm nhà nước chỉ cấp
vốn không đáng kể, khoảng chục tỷ mỗi năm để hỗ trợ cho các lĩnh vực sự
nghiệp như: y tế, đào tạo, nghiên cứu cơ bản của ngành than.
“Số vốn đầu tư nêu trong Quy hoạch là số vốn ngành than phải tự
cân đối như từ trước đến nay vẫn thế. Vấn đề không phải là nhiều hay ít. Cũng
giống như vốn đầu tư của cả nền kinh tế, vấn đề quan trọng là hiệu quả của
đầu tư, chứ không phải qui mô của đầu tư. Nếu xét về hiệu quả và đánh giá
trên quan điểm lợi ích chung của nền kinh tế thì Việt Nam không nên đầu tư
vào lĩnh vực tái sản xuất mở rộng (tức đầu tư cho phát triển theo chiều rộng)
của ngành than, mà chỉ nên đầu tư cho khâu duy trì sản xuất (tái sản xuất
giản đơn)”, TS Sơn nhấn mạnh.
Tránh khai thác
than tràn lan
Một vấn đề khác được vị chuyên gia này đặc biệt quan tâm đó là
chất lượng cũng như tính hiệu quả trong khai thác than của Việt Nam hiện nay.
Theo TS Sơn, chất lượng than thường được đánh giá theo chỉ tiêu
nhiệt năng (nhiệt trị) của than. Nếu qui về đơn vị nhiệt năng là 1 triệu đơn
vị nhiệt Anh (MBTU) thì giá bán tại các cảng ở Quảng Ninh (FOB) của than khai
thác trong nước hiện nay bình quân là 2,9 USD/MBTU, và giá nhập khẩu than từ
nước ngoài về đến Việt Nam (giá CIF/CFR) tại cùng thời điểm bình quân là 2,6
USD/MBTU.
“Như vậy, nếu so sánh cùng một mặt bằng, thì giá than trong nước
đã cao hơn giá than nhập khẩu. Vì vậy, việc khai thác than trong nước hiện
nay là không hiệu quả”, TS Sơn so sánh.
Lý giải điều này, nguyên Giám đốc Ban quản lý các dự án than đồng
bằng sông Hồng khẳng định, việc xuất lậu than và than ngoài luồng của TKV
hiện nay (có thể gọi chung là “than thổ phỉ”) chính là nguyên nhân chủ yếu
dẫn đến giá than trong nước cao hơn giá than nhập khẩu.
“Từ khoảng 300 triệu năm nay, than được trời cho, hình thành dưới
lòng đất ở ngoài Quảng Ninh có chất lượng không thay đổi. Nhưng khoảng 20 năm
gần đây, khi được TKV khai thác, lấy lên từ lòng đất thì chất lượng than đã
xuống cấp rất nhanh. Không cần phải là kỹ sư mỏ, kỹ sư tuyển khoáng hay kỹ sư
địa chất, ai cũng hiểu: người ta đã và đang tuồn than chất lượng cao ra ngoài
để bán lậu hoặc để xuất khẩu lậu, rồi trộn đất đá vào để bù sản lượng và để
tính giá thành khai thác
Vì những nguyên nhân trên mà giá than khai thác trong nước qui
theo chất lượng đã cao hơn giá than nhập khẩu, và số than tồn kho lên tới cả
chục triệu tấn (như TKV thông báo) là kết quả tất yếu của cơ chế quản lý hiện
nay của TKV”, TS Sơn lo ngại.
Từ những phân tích trên vị chuyên gia khẳng định, thay vì khai
thác tràn lan, đầu tư quá nhiều vốn vào việc duy trì và mở rộng sản xuất thì
Việt Nam nên chú trọng đến việc siết chặt vấn đề xuất lậu than diễn ra khá
phức tạp thời gian qua.
“Nếu không kịp thời thanh tra làm rõ về than tồn kho của TKV thì
sau một thời gian nữa cả chục triệu tấn than này sẽ giống đá hơn giống than”,
TS Sơn cảnh báo.
(Theo Đất Việt)
Nguyễn Hoàn
|
Thứ Tư, 28 tháng 12, 2016
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét