Khi 90 triệu người cùng
quyết... làm quan!
Cập nhật lúc 09:05
Đa
số sĩ tử trong các cuộc thi đều mong mình may mắn thi đậu để được làm
Quan chứ không phải vì mục đích cao cả hay quốc gia đại sự.
Học để “cả họ được nhờ”
Nhìn qua các thống kê, có thể thấy
tinh thần hiếu học của dân ta ít nước nào theo kịp. Quả là đáng khâm
phục cho một đất nước ngày nào còn khắp nơi “Bình dân học vụ” nhưng chỉ hơn
nửa thế kỷ sau đã có tới gần 30 ngàn Tiến Sĩ, khoảng 120 ngàn Thạc Sĩ và mỗi
năm ra lò hơn 400 ngàn người tốt nghiệp ĐH-CĐ (năm sau cao hơn năm trước).
Hiếu học là vậy, nhưng có vẻ cái sự
học này chưa phát huy hiệu quả. Bằng chứng là tuy người người đi học, nhà nhà
đi học sau đại học nhưng vẫn hiếm thấy bóng dáng các sản phẩm chất
lượng cao mang tên “trí tuệ Việt”.
Do đặc thù lịch sử, Việt Nam từng
chịu ảnh hưởng rất lớn của Nho vốn có chủ trương tìm về cái cũ, cái ngày xưa
tươi đẹp nên không chú trọng hay khuyến khích mọi người nghĩ ra cái mới hay
cải cách, đổi mới. Cũng vì vậy nên giáo đồ của họ đa số chỉ quan tâm đến học
thuộc lòng, nhớ lấy những gì quan trọng để khi cần thì mang ra đối đáp, thi
thố.
Dần dần khái niệm "học để làm
người" và tìm ra ý nghĩa cuộc sống đã trở thành xa xỉ. Thay vào đó, đa
phần quen học vẹt, học để kiếm cơm (theo cách nói của cụ Phan Khôi),
và để thoát nghèo bền vững hay biến một người đang là nông dân trở thành
trí thức.
Trong xã hội đó, đa số sĩ tử trong
các cuộc thi đều mong mình may mắn thi đậu để được làm Quan chứ không
phải vì mục đích cao cả hay quốc gia đại sự. Do khi làm quan, đôi lúc “cả họ
được nhờ” nên phần đông mọi người cố gắng học thuộc lấy một “bồ chữ” để theo
đuổi mục đích riêng của mình, làm giàu cho gia đình mình, rạng danh dòng họ
mình chứ ít ai quan tâm đến cái chung hay phụng sự đất nước.
Tâm lý đó vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến
mục đích học của nhiều người Việt ngày nay. Rất nhiều người coi bằng Tiến Sĩ
là cái ngưỡng cao nhất của học tập. Họ sẽ dừng việc học lại một khi có tấm
bằng trong tay.
Văn hóa trọng sĩ khiến cho nhiều người
coi việc học là đích đến chứ không phải tiến trình. Ở một số nước, người ta
coi việc học là mục tiêu suốt đời nên họ cặm cụi học tập và tận tụy nghiên
cứu hàng ngày để lần lượt cho ra đời các phát minh, sáng chế làm lợi cho nhân
loại.
Nghề đi học
Nước ta cũng có nhiều người đi học suốt
đời nhưng phần đa là do học mãi mà chưa lấy được bằng hoặc chưa biết làm gì
nên cứ đi học – vì dù sao thì việc học luôn được coi trọng trong một
đất nước “hiếu học” như Việt Nam.
Không thiếu
người suốt đời theo đuổi hết khóa này đến khóa khác, bằng này đến bằng khác (do được ưu đãi về học bổng) và tạo nên một hiện tượng “nghề đi
học”. Xét về quyền thì họ không sai, nhưng nếu nhìn rộng ra thì những
người làm nghề này tuy có bằng cấp và kiến thức tốt nhưng lại không làm lợi
cho xã hội vì họ không làm việc theo đúng nghĩa.
Cũng bởi vì cách tiếp cận trong giáo
dục của chúng ta đang có vấn đề, nên hậu quả là “thầy” quá nhiều nhưng không
biết hoặc không có cơ hội làm việc theo đúng nghĩa, trong khi đó thợ có tay
nghề cao lại thiếu cho dù nhu cầu xã hội rất cao.
Nếu nhìn nhận theo quan điểm quản
trị thì để một xã hội vận hành hiệu quả, không cần quá nhiều
nhà quản lý (mà chỉ cần tinh nhuệ) hay nhà khoa học (ít nhưng hiệu
quả), mà cần nhiều hơn những người thợ có tay nghề cao trong các
nhà máy, xí nghiệp.
Cùng với những nông dân cần cù nơi
đồng ruộng, họ mới chính là những người trực tiếp làm ra sản
phẩm, vật chất cho xã hội, góp phần trực tiếp và có ý nghĩa
thực tiễn nhất thúc đẩy sự phát triển kinh tế đất nước. Họ cần
mẫn, cặm cụi làm việc mà không hề kêu ca về lương thấp và các chế
độ phụ cấp nghèo nàn. Với họ, hạnh phúc đơn giản là được
làm việc, có thu nhập để nuôi sống bản thân, chăm sóc gia đình và
trông đợi một tương lai tươi sáng.
Một đất nước muốn phát triển thì
cơ cấu ngành nghề cần được điều chỉnh phù hợp để lao động với
hàm lượng trí tuệ cao cần chiếm ưu thế, nhưng điều kiện cần và đủ
của Việt Nam cho vấn đề này vẫn chưa đến.
Trước mắt, hàng năm chúng ta vẫn
phải sống nhờ vào 40 triệu tấn thóc, 6-7 triệu tấn cafe cùng các
sản phẩm nông nghiệp khác. Lao động phổ thông vẫn đang là nguồn lực
quan trọng để tạo ra hàng hóa xuất khẩu góp phần cân bằng cán cân
mậu dịch của đất nước. Và trong số mấy chục nghìn doanh nghiệp
nhỏ đa số được sở hữu và quản lý bởi những người chưa bao giờ
tốt nghiệp ĐH kia, một lượng lớn lao động đang ngày đêm làm việc để
góp phần nuôi sống mấy triệu cử nhân cùng hơn một trăm ngàn thạc
sĩ, tiến sĩ trên toàn quốc.
Đến bao giờ sự hiếu học của dân ta mới
phát huy được thế mạnh và đóng góp xứng tầm cho phát triển? Có rất nhiều điều
cần bàn đến ở đây liên quan đến “Triết lý giáo dục”, “cơ chế sử dụng nhân
tài”, cùng các biện pháp đồng bộ trong nghiên cứu và ứng dụng KHKT của nước
nhà?
Nhưng, đó cũng là khi mỗi người đi học
không chỉ để hành nghề, để làm quan hay để thoát nghèo mà còn để biết cách
ngồi lại cùng nhau, biết chia sẻ, cảm thông, tôn trọng sự khác biệt thông qua
vận dụng lối tư duy phản biện để cùng nhau làm việc vì mục tiêu chung.
(Theo TuanVietNam) Trần Văn Tuấn
|
Chủ Nhật, 1 tháng 2, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét