Lý thuyết Tam chiến của Trung Quốc
Cập nhật lúc 08:03
Vào năm 2003, Trung ương Đảng Cộng Sản Trung Quốc
và Quân ủy Trung ương đã phê chuẩn cho khái niệm tam chiến (san zhong zhanfa;
三种战法; tam chủng
chiến pháp), đó là cuộc chiến nhắm đến thế thượng phong cho Trung Quốc trong
các tranh chấp tương lai.
Khái niệm “tam chiến” được mô tả ở chương 2, phần 18 của “các quy
định về công tác chính trị của Quân đội Giải phóng Nhân dân Trung Quốc
(PLA)”. Bộ Quốc phòng Mỹ diễn giải thêm tam chiến - ba loại hình chiến tranh
- là:
Chiến tranh tâm lý (Psychological
warfare): Tìm cách phá hoại
năng lực chiến đấu của địch bằng cách ngăn chặn, gây hỗn loạn, làm mất tinh
thần quân địch cũng như các nhóm người hỗ trợ dân sự của địch.
Chiến tranh thông tin (Media
warfare): Hướng đến gây ảnh
hưởng đối với ý kiến trong nước và quốc tế để ủng hộ các hoạt động của quân
đội Trung Quốc và làm địch thủ e sợ không dám hành động chống lại lợi ích của
Trung Quốc
Chiến tranh pháp lý (Legal
warfare): Sử dụng luật pháp
quốc tế và các nước để tranh giành đến mức cao nhất hoặc xác quyết các lợi
ích Trung Quốc. Loại chiến tranh này có thể sử dụng để ngăn cản không cho kẻ
địch tự do hoạt động và hình thành không gian hoạt động cho quân đội Trung
Quốc. Loại chiến tranh này có thể được dùng để gây dựng sự hỗ trợ quốc tế và
quản lý những hậu quả có thể xảy ra đối với quân đội Trung Quốc.
Tiến hành
Chiến tranh tâm lý: Bao gồm những nỗ lực nhằm làm gián đoạn khả năng ra quyết định
của đối phương, tạo sự hoài nghi, gây những tình cảm chống đối, lừa đối
phương và khiến đối phương mất ý chí chiến đấu. Trong loại hình này, Trung
Quốc có thể sử dụng tẩy chay kinh tế, áp lực ngoại giao, dùng tàu cá, tàu ngư
chính quấy rối, cho thuê các khu vực khai thác dầu khí mà các nước khác tuyên
bố chủ quyền, bày tỏ bất bình, áp đặt bá quyền và bày tỏ sự đe dọa.
"Trò chơi bạo lực của Trung Quốc là
một trò chơi chính trị: nhằm thắng về chính trị. Dọa dẫm để đối phương nhượng
bộ" (1).
Như một phần của chiến tranh tâm lý, tự
điển Bách khoa PLA có đề cập đến chiến lược răn đe (weishe zhanlue; 威慑战略; uy hiếp chiến lược), đó là “biểu tượng sức mạnh quân sự, hoặc
đe dọa sử dụng sức mạnh quân sự, nhằm bắt buộc đối phương phải hàng phục”.
Răn đe có tính chiến lược (strategic deterance - zhanlue weishe; 战略威慑; chiến lược uy hiếp) bao gồm tất cả những thành tố của sức mạnh
tổng lực quốc gia (CNP) (2). Những thành tố đó đều có mặt phần nào trong đề mục các hoạt
động của tam chiến (3).
Chiến tranh tâm lý và chiến thuật đánh
lừa của Trung Quốc, theo Michael Pillsbury và James Holmes, nằm ở chỗ đánh
lạc hướng và đánh lừa - một cốt lõi của chính trị và thuật dùng binh Trung
Quốc. Theo Tôn Tử, kế sách tối ưu của chiến tranh là đánh vào kế hoạch của
đối phương, kế đó là đánh vào liên minh, thứ ba là đánh vào quân đội đối
phương và thứ tư mới là đánh vào thành trì (4). Mục đích thực thụ chính là tâm trí của các nhà lãnh đạo
địch quốc, không phải là những thực thể vật chất như là quân đội. Jases
Holmes cũng cho rằng các phương sách che giấu tướng tài, giấu năng lực chiến
đấu, giả vờ là yếu kém khi không yếu kém và giả vờ là bị động khi thực ra
đang chủ động. Tam chiến đánh vào tâm lý, do vậy phù hợp với văn hóa chiến
tranh của Trung Quốc.
PLA đã tiến hành chiến tranh tâm lý
không phải chỉ sau năm 2003 khi Tam Chiến được phê duyệt. Michael Pillbury
cho biết qua những bản dịch tài liệu PLA rằng họ đã thành công trong việc tập
trung tin tâm lý nhằm đánh lạc hướng kẻ địch ở các cuộc chiến với Mỹ năm
1950, Ấn Độ 1962, Liên Xô 1969 và Việt Nam 1979. Quân Trung Quốc có thể bắn
các tên lửa chứa truyền đơn, giả âm thanh xe tải quân sự để làm “quân xanh”
xuống tinh thần. Cướp tinh thần đối phương thông qua cách thả truyền đơn bằng
bong bóng bay, cho quân lính la to khi tiếp cận đối phương cũng là cách Trung
Quốc hay dùng (5). Những quân nhân Việt
Với cách đòi hỏi chủ quyền nhiều hơn mức
cần thiết đến độ vô lý, để sau đó gặm nhấm dẫn từng phần nhỏ, Trung Quốc hiện
áp dụng Tam Chiến đối với Nhật: từ chối chấp nhận Okinawa là của Nhật! (6)
Những chiến thuật mà các tư lệnh tam
chiến đang tiến hành bao gồm nhiều thứ khác câu chuyện đòi “mười” để được
“năm” hay “sáu” mà sau đó ra vẻ nhường một bước khiến cho đối phương cảm thấy
“à, Trung Quốc có nhượng bộ!”.
Có những triển khai là kết hợp vừa là
chiến tranh tâm lý vừa là chiến tranh truyền thông. Những phái đoàn ngoại
giao được hướng dẫn và thực tập nhuần nhuyễn cách trả lời báo chí quốc tế để
giảm nhiệt các hành động lấn tới của Trung Quốc ở biển Đông, theo kiểu:
“Chúng tôi chưa hề biết gì về việc đó” và “Chuyện không có gì mà ầm ĩ”. Những
sự kiện cắt cáp tàu Viking 2, Bình Minh 2 và đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào
EEZ Việt Nam được các nhà ngoại giao Trung Quốc hạ nhiệt bằng cách nói tránh,
nói giảm tính cấp thiết của vấn đề và đưa nạn nhân vào tư thế của người chăn
cừu gọi sói (Wolf Crying). Kiểu tam chiến này cực kỳ nguy hiểm vì nạn nhân sẽ
dễ mắc lừa và không tự bảo vệ kịp khi Trung Quốc thực sự ra tay như trường
hợp Gạc Ma 1988 và Scarborough 2012. Ru ngủ và đánh úp theo kiểu xuất kỳ bất
ý, công kỳ vô bị.
Trung Quốc cố tình xây dựng một sự “mờ
ảo chiến lược”(strategic ambiguity), như trường hợp họ đang áp dụng tại biển
Đông, tức làm cho rối mù một cách có chủ ý. Bản thân đường chữ U cũng trải
qua nhiều giai đoạn, từ chữ U -11 đoạn, sau đó 9 đoạn rồi 10 đoạn vào tháng
6.2013. (7)
Chiến tranh pháp lý ( Legal warfare hay lawfare): Là mũi nhọn chính (prominent
role) trong 3 kiểu chiến tranh đã nêu. Đây vừa là cách đấu tranh độc lập vừa
cung cấp tư liệu cho chiến tranh truyền thông. Kiểu chiến tranh này có một
tầm ứng dụng bao gồm từ phù phép luật pháp cho đến dựng đứng ra những điều
luật nhằm thông báo các tuyên bố tranh chấp lãnh thổ và nguồn lực, đến sử
dụng các bản đồ giả tạo để “minh chứng” cho các yêu cầu lãnh thổ (nổi bật là
đường chữ U bao gồm khoảng một triệu dặm vuông biển Đông), đến sử dụng có
chọn lọc những điều khoản của UNCLOS và các công ước luật pháp quốc tế cho
những mục đích cụ thể, đến bóp méo luật pháp cho phép các cộng đồng ven biển
thành lập những đô thị (như Tam Sa chẳng hạn) nhằm mở rộng quyền quản hạt và
thực hiện quyền lực ở biển Đông.
Chiến tranh luật pháp là một kỹ thuật
dùng để chứng tỏ những hoạt động của Trung Quốc là có hiệu lực pháp lý và
củng cố những nỗ lực tâm lý để tạo sự nghi ngờ trong hàng ngũ đối phương,
trong những giới chức trách quân sự và dân sự cũng như trong cộng đồng quốc
tế về tính chính đáng của hoạt động đối phương. Do vậy chiến tranh luật pháp
là thành phần quyết định trong nỗ lực của Trung Quốc nhằm xoá bỏ sự ủng hộ
chính trị đối với đối phương và tiến xa hơn thông tin cũng như kiến trúc vững
chắc cho các tuyên bố chủ quyền và tài nguyên của Trung Quốc.
Kết nối PLA với các cơ quan biển khác là
một phần của tam chiến - chiến tranh pháp luật của Trung Quốc. (8)
1. Kể những chuyện gây thiện cảm
2. Gia tăng tốc độ kể
3. Tránh nói đến UNCLOS
Một kiểu lý giải cho đường chữ U và những
vấn đề pháp lý liên quan được tác giả Cao Qun phát biểu: "Trung Quốc
tuyên bố chủ quyền trên các đảo và các vùng nước xung quanh nhưng chưa hề
tuyên bố chủ quyền ở phía trong đường chữ U". (9)
Như vậy, "
Kiện và dùng các biện pháp pháp lý là
những hành động bình thường các nước văn minh trong cộng đồng thế giới nhưng
tác giả Cao Qun cho rằng đây là làm tổn hại hình ảnh Trung Quốc (damage
China’s image) (12). Tại đây có thể là một sự khác biệt về quan điểm luật pháp
(giữa hai bên, hai nước), và cũng có thể là một sự mù mờ có chủ đích.
Chiến tranh thông tin (Media warfare): Là chìa khóa để giành lấy thế thắng áp đảo
trên phương diện chiến tranh tâm lý và chiến tranh pháp lý. Giới phân tích đã
định nghĩa chiến tranh thông tin (còn gọi là chiến tranh tư tưởng công chúng)
là một hoạt động liên tục, không ngừng nghỉ nhắm đến tác động nhận thức và
thái độ. Chiến tranh thông tin nhấn mạnh đến tất cả các công cụ truyền tin và
ảnh hưởng công chúng như phim ảnh, truyền hình, sách báo, internet, và mạng
lưới truyền thông toàn cầu (đặc biệt là Xinhua và CCTV). Đây là trách nhiệm quốc gia đối với PLA vừa là
nhiệm vụ nội địa đối với công an vũ trang nhân dân.
Tác động xã hội của việc tuyên truyền
này trong cộng đồng Trung Quốc là rất lớn. Hình ảnh bà cụ Triều Tiên ôm hôn
chiến sĩ Trung Quốc trong chiến tranh Triều Tiên và hình ảnh một người Âu tên
Lary khen ngợi sức mạnh Triều - Trung là những hình tượng tuyên truyền có sức
ảnh hưởng rất lớn. (13)
Những công cụ này được sử dụng để đạt
mục đích như duy trì tình hữu nghị của Trung Quốc và đồng minh, giữ được ủng
hộ của công chúng trong và ngoài nước, làm suy giảm ý chí chiến đấu của đối
phương và thay đổi đánh giá tình hình của đối phương.
Ngoài tuyên truyền trong nước và khu
vực, Bắc Kinh còn quan tâm đến tầm quốc tế của tuyên truyền:
“Phải cố gắng nâng cao quyền ngôn luận
quốc tế. Quyền ngôn luận quốc tế là bộ phận hợp thành quan trọng của quyền
lực mềm quốc gia. Hiện nay, tổng thể bố cục ngôn luận quốc tế là phương Tây
mạnh, Trung Quốc yếu, Trung Quốc thường có lý mà không nói ra được”. (14)
PLA phân loại chiến tranh thành 3 dạng
là chiến tranh (zhanzheng; 战争), chiến dịch (zhanyi; 战役) và trận chiến (zhandou; 战斗). Mỗi cấp độ sẽ có hướng dẫn hoạt động cụ thể đó là chiến lược
(zhanlue, 战略), phương pháp cho từng chiến dịch (zhanyi fangfa; 战役方法; hoặc zhanfa; 战法) và chiến thuật (zhanshu; 战术). Tam chiến được phân loại ở mức chiến dịch nhưng có thêm phần
áp dụng gia tăng của chiến lược và chiến thuật. Hơn nữa, ứng dụng tam chiến
cho thấy niềm tin của PLA rằng chiến tranh không chỉ là đấu tranh quân sự mà
còn là sự can dự sâu trong các phạm vi luật pháp, đối ngoại, kinh tế và chính
trị (15). Một cuộc đấu tranh
không tiếng súng, đã diễn ra và rèn giũa tính sẵn sàng của quân đội Trung
Quốc từng ngày từng giờ.
Bốn trụ cột của chiến tranh truyền thông
là: Một là, chấp hành từ trên xuống, có nghĩa là nỗ lực của cuộc chiến này
phải từ lãnh đạo từ cao đi xuống (Quân ủy Trung Ương và Đảng Cộng sản Trung
Quốc) về cả nội dung và thời gian biểu. Hai là, nhấn mạnh tiên hạ thủ vi
cường, tức phát thanh, phát sóng, phát hình trước, dẫn dắt cuộc tranh luận
(framing the debate). Nhấn mạnh tính chính đáng và cần thiết của các hoạt
động, nhấn mạnh quốc lực và phô diễn sức mạnh vượt trội. Làm tê liệt ý chí
chiến đấu của đối phương. Ba là, uyển chuyển và phản ứng nhanh, tức là các
hoạt động phải linh hoạt và thích ứng với tình hình chính trị và quân sự. Đẽo
gọt chương trình cho khán thính giả mục tiêu trong nước và quốc tế. Bốn là,
tận dụng các nguồn lực sẵn có, tức là kết hợp các hoạt động thời bình và thời
chiến. Bảo đảm quân dân trong nước đoàn kết trong chương trình tuyên truyền
cho thời chiến, nếu xảy ra.
Tam chiến và các mục tiêu cụ thể của
Trung Quốc:
- Kiểm soát tài nguyên trong vòng
đường chữ U và tuyến phòng thủ thứ nhất
- Dò ý định, quyết tâm và sự sẵn
sàng của Mỹ trong bảo vệ
- Làm lỏng lẻo quan hệ Mỹ và
- Củng cố ảnh hưởng Trung Quốc ở
biển gần.
- Củng cố bá quyền Trung Quốc và
pha loãng sự “đi nước đôi” các nước quanh biển Đông.
- Làm khiếp vía
- Nếu Mỹ và Trung Quốc chiến
tranh, sử dụng khả năng phản can thiệp (gồm A2AD) để đẩy Mỹ ra xa.
- Tránh động chạm đến các cơ chế
như ASEAN, UNCLOS và Tòa trọng tài quốc tế (
* Những yêu cầu của Tam chiến
Tam chiến nhắm đến vận động các nguồn
thông tin cho phép PLA định hướng, phân tích và tập trung tư tưởng quần
chúng. Với những tác phẩm có tính thẩm quyền như Bài giảng về phối hợp tác
chiến (Lectures on Joint Operating Command Organ work) thì chiến tranh là một
quá trình, trong đó xung đột sẽ được định hướng từ việc đánh giá lực hủy diệt
và khả năng chiếm lãnh thổ đến việc tạo ra tâm lý khiếp sợ (zhenshe xinli; 震慑心理), tâm lý tấn công (daji xinli; 打击心理) và chiếm đoạt ý chí (duoqu yizhi; 夺取意志). CMC mong muốn tam chiến sẽ chiếm lĩnh vị trí chủ chốt và
thực hiện những chức năng bên cạnh những lãnh vực tấn công quân sự đơn giản.
(17)
Dùng loa phóng thanh và sóng radio cho
sĩ quan rành ngoại ngữ tuyên truyền về tính “phi nghĩa” của đối phương, tạo
tâm lý phản chiến cho binh sĩ đối phương. Pillsbury cho biết PLA nghiên cứu
kỹ tìm trình báo về quá trình tư tưởng, thông tin đối phương và làm thành cơ
sở dữ liệu về tổng hợp tâm lý, bố trí võ khí và cả những khiếm khuyết về tâm
lý của dàn tướng lĩnh đối phương. PLA sẽ sử dụng để tạo công suất cao nhất.
Sử dụng hiệu ứng của các đơn vị tù binh
hay hàng binh, tẩy não họ để gây rối với tâm lý binh sĩ đối phương cũng được
Trung Quốc sử dụng từ thời nội chiến. (18)
* Tam chiến yêu sách chủ quyền ở Bắc Cực
và Nam Cực.
Kể từ 2008, truyền thông Trung Quốc đã
đưa về các thành tựu và những quyền lợi hợp pháp ở Bắc Cực (19). Văn phòng thông tin nhà nước (State Council Information
Office) đã xuất bản một bài báo nói về việc Trung Quốc bị từ chối đề nghị trở
thành một quan sát viên thường trực của Hội Đồng Bắc Cực và nhấn mạnh đã đến
lúc “phải chấm dứt việc độc quyền cai quản việc của Bắc Cực bởi các quốc gia
Bắc Cực” (20).
Trung Quốc cũng đã thể hiện sự bất mãn
vì không được tham gia cai quản Nam Cực và than phiền bị đối xử như quốc gia
hạng hai. Họ đã có tiến triển trong việc giành được quyền tài trợ cho những
nhà khoa học Úc nghiên cứu Nam Cực. Hành động này tạo điều kiện thuận lợi cho
Trung Quốc bước vào các công việc của Nam Cực (trong đó có việc xâm nhập vào
một vùng mà Úc đang tuyên bố chủ quyền). Với nhịp độ này, Trung Quốc đang cho
đăng tải hàng loạt bài báo trên các tạp chí nghiên cứu liên quan các thảo
luận về tài nguyên Nam Cực cũng như những lợi ích tiềm năng đi kèm. (21)
Chiến tranh luật pháp ở đây có phần mang
kiểu cách Trung Quốc cao. Bởi lẽ quan niệm về luật pháp của Trung Quốc có
khác với thế giới bình thường. Luật pháp quốc tế mà Trung Quốc tham gia như
UNCLOS vẫn có thể được diễn dịch sao cho có lợi cho Trung Quốc. Ví dụ như
UNCLOS và khái niệm vùng nước lịch sử. Trung Quốc có truyền thống Khổng giáo
và pháp gia, có thiên hạ quan trung tâm là Hoa Hạ và có quan niệm khác biệt
về vai trò cai trị bằng luật (nguyên văn: "role & rule of law")
và kể cả quan niệm của Trung Quốc về cách phương Tây áp dụng luật (22). Đảng cho rằng cần lấy luật để cai trị chứ không phải cai
trị dựa trên luật pháp. Đảng cộng sản Trung Quốc quan niệm luật là công cụ để
cai trị nhân dân chứ không phải để tự hạn chế quyền hành của mình. Do vậy,
không có nếp nghĩ nào đề cao pháp luật - như là một công cụ hạn chế bớt quyền
hành của giới thống trị - có thể phát triển được ở Trung Quốc. (23)
Chiến tranh luật pháp được tiến hành
theo kiểu cây gậy nhỏ (small stick) như dùng tàu chấp pháp tấn công các ngư
dân ở các vùng biển mà Trung Quốc đòi hỏi chủ quyền trong khi Hải quân hỗ trợ
ngay phía sau. (24)
Các nhà phân tích chiến lược Trung Quốc
cảm nhận được Mỹ đã vận động luật pháp thành công trong công cuộc chiến vùng
vịnh 1991 bằng cách khởi chiến thông qua sự cho phép của Liên Hiệp Quốc và
sau đó là áp dụng cấm vận cũng bằng luật. Các loại bản đồ của Trung Quốc in
ấn trên hộ chiếu, trên sách giáo khoa, quả địa cầu… đã bị các nước, vùng lãnh
thổ Philippines, Việt Nam, Ấn Độ, Đài Loan phản đối. Song Trung Quốc đã từng
lý giải các loại bản đồ này theo cách của họ. Chu Ân Lai trong các cuộc trò
chuyện với Nehru năm 1954 và 1956 đã nói rằng các bản đồ của Trung Quốc không
phải thể hiện "tuyên bố chủ quyền" của Trung Quốc mà chỉ là những
bản đồ từ các chế độ trước truyền lại và "chưa được" sửa chữa. Cách
nói này cho phép thủ tướng Trung Quốc che giấu mối quan tâm lâu dài của Bắc
Kinh về các tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc vào thời điểm nào đó trong
tương lai.
Tác giả Stefan Halper cũng đã nói về tâm
lý dân tộc Trung Quốc: Thích giải quyết bằng chính trị hơn là bằng phân xử
luật pháp (desire for political rather than legal action). Dễ hiểu vì sao
Trung Quốc “bất bình” quá mức cần thiết khi bị
* Sáu thành phần đánh lạc hướng của tam
chiến/kết hợp cả ba loại chiến tranh:
Một, uốn nắn các niềm tin có sẵn bằng
cách đưa các chứng cứ giả, uốn nắn các niềm tin này theo cách lý giải mới và
bảo đảm rằng các hàm ý vừa thay đổi ấy có lợi hơn.
Hai, đưa ra những tư liệu dần dần sẽ
hiệu quả hơn trong việc thay đổi nhận thức của đối thủ theo thời gian.
Ba, sử dụng thông tin chính xác càng
nhiều càng tốt.
Bốn, sử dụng các cơ chế kiểm soát phản
hồi và bảo đảm chúng có kết quả như mong muốn.
Năm, theo dõi chặt hiệu quả và loại trừ
lập tức các hiệu ứng phụ không có ích.
Sáu, thiết kế tổng quát, vẽ ra bức tranh
tổng hợp, nguồn lực, thời gian và dòng chảy thông tin vào đất phe địch.
Cách phản ứng mang tính tam chiến cao
của Trung Quốc trước các cáo buộc vi phạm chủ quyền, hacking hệ thống máy
tính, dùng ra đa theo dõi tàu thuyền Nhật Bản sẽ là:
- Không thừa nhận gì cả.
- Không phủ nhận gì cả.
- Yêu cầu trưng ra bằng chứng.
- Đỗ lỗi cho 1 phía nào khác.
- Tạo ra những cáo buộc ngược lại
đối phương sao cho thật là sinh động. (Theo Dr James Mulvenor)
Tâm công thực ra đã được các nhà quân sự
cổ kim sử dụng nhiều, trong cuộc chiến Việt
“Ngoài ra, không lực Mỹ đã không xác
định đúng điểm trọng tâm ở miền Bắc Việt
Điều mà một số nhà phân tích nhấn mạnh ở
tam chiến là: 1) quan niệm về chủ quyền đặc biệt lạ của Trung Quốc, 2) khái
niệm vô hình tướng (formlessness), 3) những ảnh hưởng của tam chiến đến các
năng lực, xóa mờ sự hiện diện của các bên khác, cụ thể là Mỹ ở châu Á - Thái
Bình Dương.
Người Trung Quốc không chấp nhận đồng
đẳng ”Có đồng đẳng tức không có chủ quyền”. Và chỉ có Trung Quốc là có quyền
hùng cứ một phương một cách phù hợp nhất (26). Chiến tranh tâm lý của tam chiến cũng nhắm hướng đến sự
mù mờ ảo ảo, vô hình trạng (formlessness), lai vô ảnh khứ vô tung, che giấu
sức mạnh thực sự của Trung Quốc. Theo Tôn Tử, tối ưu của cuộc chiến là đánh
vào kế hoạch của địch (ý chí chiến đấu). Giả vờ yếu thế ở chỗ mạnh và vờ mạnh
ở chỗ yếu. Từ năm 2003, tam chiến đã được thực hiện để đỡ dần cho PLA khi lâm
chiến thực thụ. Kỹ thuật xóa mờ của Trung Quốc bao gồm uy hiếp kinh tế đến
các đồng minh, bạn hữu của Mỹ cộng với tuyên truyền Mỹ không có năng lực hỗ
trợ đồng minh. Kế đó là ngăn trở sự giám sát và sự hiện diện của Hải quân Mỹ,
gia tăng tầm với của Hải quân Trung Quốc và sau cùng là đông cứng những chiến
lược xa bờ của Mỹ. (27)
Trung Quốc quyết tâm đưa Mỹ vào thế thủ
bằng tam chiến, và tận dụng cách mà họ cho rằng Mỹ đã áp dụng để đuổi nước
Anh khỏi Tân Lục Địa (28). Họ khẳng định Mỹ sẽ bị Trung Quốc hất cẳng, và kêu gọi các
chính khách phải lạnh lý tính trong chiến lược này. (29)
Thay lời kết
Trong bối cảnh Việt Nam đang thường
xuyên phải đấu tranh chống lại những hành động, lời phát ngôn của nhà cầm
quyền Trung Quốc liên quan chủ quyền biển đảo và những quan hệ đối ngoại,
kinh tế, an ninh quốc phòng khác, việc tìm hiểu các loại chiến lược, chiến
thuật, sách lược của đối phương là điều cần thiết. Điều này không chỉ liên
quan quân sự, quốc phòng mà còn đối với các lĩnh vực khác như kinh tế, khoa
học, ngoại giao và những lĩnh vực dân sự khác.
(Theo Thanh niên) Lê Vĩnh Trương
(Quỹ Nghiên cứu biển Đông)
[1] Hitoshi Nasu, Proceedings of
International Conference on East Sea Dispute (ICESDI 2014, July 25-26) Ton
Duc Thang University Vietnam, trang 23
[2] CNP: Comprehensive National Power,
tạm dịch: Sức mạnh tổng lực quốc gia
[3]
[4]
[5]
[6]
[7] Bill Hayton, The South China Sea,
2014,
[8]
[9] Cao Qun, Proceedings of
International Conference on East Sea Dispute (ICESDI 2014, July 25-26) Ton
Duc Thang University Vietnam, trang 206
[10] Cao Qun, Proceedings
of International Conference on East Sea Dispute (ICESDI 2014, July
25-26) Ton Duc Thang University Vietnam, trang 210
[11] Cao Qun, Proceedings of
International Conference on East Sea Dispute (ICESDI 2014, July 25-26) Ton
Duc Thang University Vietnam, trang 211
[12] Cao Qun, Proceedings
of International Conference on East Sea Dispute (ICESDI 2014, July
25-26) Ton Duc Thang University Vietnam, trang 216
[13] Peter Hays Gries, Social Psychology
and the Identity-conflict debate: Is a ‘
[14] Nguyễn Văn Lập, Hội nghị
Trung Ương 4 Khóa XVIII Đảng Cộng Sản Trung Quốc, “Y Pháp Trị Quốc” Và Vai
Trò Lãnh Đạo Của Đảng, Thông Tấn Xã Việt
[15]
[16]
[17]
[18]
[19]
[20]
|
Thứ Sáu, 27 tháng 2, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét