Tin mới
về vũ khí hạt nhân Nga-Mỹ trong tình hình nóng
Cập nhật lúc 08:44
(Bí mật quân sự)
- Ngày Tết mà bàn đến các loại vũ khí hủy diệt và những vấn đề thuần túy về
lý luận quân sự thì có vẻ không hợp lắm, nhưng...
Nhưng dù sao
cũng phải nói vì chúng đang tồn tại và nhất là trong bối cảnh mối quan hệ
Phương Tây – Nga đang căng thẳng như hiện nay.
Xin lược dịch
và giới thiệu với bạn đọc một số số liệu và luận điểm của X. Rogov- giám
đốc Viện Mỹ và Canada Viện Hàn lâm KH Nga; V.Esin- Thượng tướng, phó
tiến sỹ khoa học quân sự, nguyên tham mưu trưởng Bộ đội tên lửa
chiến lược (1994-1996) ; P. Zolotarev- Thiếu tướng, phó giám đốc Viện
Mỹ và Canada Viện HLKH Nga; V. Kuznhesov- phó đô đốc, trưởng đại diện
quân sự của BQP LB Nga tại NATO (2002-2008) trong một bài nghiên cứu đăng
trên báo “Bình luận quân sự độc lập” (Nga) cách đây không lâu.
1. Thế nào
là sự cân bằng chiến lược?
Khái niệm “cân
bằng chiến lược” hiểu theo nghĩa truyền thống là sự tương đương về khả
năng hủy diệt của các loại vũ khí hạt nhân có tầm bắn xuyên lục địa
(hơn 5.500 km) hiện có trong trang bị của hai siêu cường (trước là Liên
Xô- Mỹ và nay là Nga- Mỹ).
Nói chi tiết
hơn - đó là nếu các bên (hai bên) sử dụng loại vũ khí này để tấn công lẫn
nhau thì trong một khoảng thời gian ngắn sẽ đạt được các kết qủa
mang tính chất quyết định, - tiêu diệt một nửa dân số và 2/3 tiềm lực
công nghiệp của đối phương.
Chính vì thế mà
khái niệm “cân bằng chiến lược" còn được hiểu là khả năng “chắc chắn
tiêu diệt lẫn nhau” của hai siêu cường.
Cho đến nay,
nhiều nhà nghiên cứu cho rằng cách hiểu như trên là quá hẹp, cần phải tính
thêm một số yếu tố khác, - như nhiều quốc gia khác chứ không riêng gì Nga-Mỹ
(Trung Quốc chẳng hạn) cũng đã sở hữu tiềm lực trên, nhưng ta sẽ đề cập đến ở
một dịp khác.
2. Thế nào
là vũ khí hạt nhân chiến lược?
Cũng theo cách
hiểu truyền thống như trên, vũ khí hạt nhân chiến lược gồm 3 loại : 1/ Các
đầu đạn hạt nhân được đặt trên tên lửa đạn đạo xuyên lục địa đặt
trên mặt đất ; 2/ Tên lửa đạn đạo trên tàu ngầm và 3/ Các máy bay
ném bom hạng nặng mang vũ khí hạt nhân (bom hoặc (và) tên lửa). Người ta
thường gọi đó là “bộ ba hạt nhân”.
“Cách hiểu
hẹp” như trên về ổn định chiến lược và các loại vũ khí hạt nhân chiến lược
chính là điểm xuất phát để Mỹ và Liên Xô ký các hiệp ước về kiểm
soát vũ khí hạt nhân.
Các thỏa
thuận hạn chế vũ khí chiến lược (gồm vũ khí tấn công chiến lược và vũ
khí phòng thủ chiến lược-NMD của Mỹ là một ví dụ về vũ khí phòng thủ chiến
lược) đã quy định trần (số lượng tối đa) đối với bộ ba hạt nhân.
Thực ra, vào
cuối thời kỳ chiến tranh lạnh thì lĩnh vực kiểm soát vũ khí đã
được mở rộng hơn. Liên Xô và Mỹ đã ký hiệp định về tên lửa tầm ngắn
và tầm trung hủy bỏ hết các tên lửa trên mặt đất có tầm bắn từ
500 đến 5500 km. Ngoài ra, Mỹ và LX cũng tuyên bố về các bước đi đơn
phương nhưng song song trong việc cắt giảm vũ khí tên lửa chiến thuật.
Các bên cũng
đã ký một Hiệp ước đa phương về lực lượng vũ trang thông thường ở
Châu Âu hạn chế số lượng tối đa 5 loại vũ khí thông thường không chỉ
của Mỹ và Liên Xô mà còn của tất cả các nước thành viên NATO và
Tổ chức Hiệp ước Vacsava.
Tuy nhiên, cho
đến nay các bên vẫn duy trì cách hiểu "hẹp" như trên (chỉ gồm 3
thành tố) về ổn định chiến lược và điều đó vẫn được quy định tại
Hiệp ước mới về vũ khí tấn công chiến lược (ký năm 2010 giữa Mỹ và
Nga).
3. Thực lực vũ
khí chiến lược Nga- Mỹ và một số nước khác
Trước hết, phải
thừa nhận một thực tế là các số liệu về vũ khí tiến công chiến lược của Nga
và Mỹ là chính xác vì chúng được quy định bởi các điều khoản chặt chẽ trong
các Hiệp ước, có cơ chế giám sát, kiểm đếm, thanh sát và kiểm chứng của cả
hai bên.
Hiện có 5
thành viên chính thức của câu lạc bộ hạt nhân (gồm 5 nước Mỹ, Nga,
Anh, Pháp, Trung Quốc), một số các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân
khác nhưng không tham gia Hiệp ước không phổ biến vũ khí hạt nhân như
Ấn Độ, Pakistan, Israel, Bắc Triều Tiên). Số lượng vũ khí hạt nhân chiến
lược của Nga và Mỹ hiện nay như sau:
Nga có 1.500
đầu đạn triển khai trên 490 phương tiện mang và Mỹ có 1.720 đầu đạn
trên 806 phương tiện mang theo các quy tắc tính về vũ khí tấn công
chiến lược. Nếu tính cả con số thực tế của vũ khí hàng không thì
tổng số đầu đạn của mỗi bên vào khoảng 2.000.
Theo đáng giá
của các nguồn độc lập (SIPRI, 2012, trang 309, 316) mỗi bên còn có
khoảng 2.500 đến 3.000 đầu đạn hạt nhân chiến lược và chiến dịch-
chiến thuật đang được bảo quản trong kho để dự trữ tác chiến, tuy
nhiên các thông tin này không được công bố công khai.
Đến ngày
1/9/2012 (theo quy tắc thống kê của Hiệp ước START mới) Mỹ có 808 bệ phóng
tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và các tàu ngầm mang tên lửa đạn đạo và các máy
bay ném bom hạng năng đã triển khai với 1.737 đầu đạn.
Nga có các con
số tương tự là 491 bệ phóng và máy bay hạng nặng với 1.499 đầu đạn. Ngoài ra
Mỹ có 228 bệ phóng chưa triển khai, còn Nga có 393.
3. Khái niệm cân bằng chiến lược trong tương lai
Đến đầu thế
kỷ XXI, cân bằng quân sự- chiến lược không chỉ chỉ phụ thuộc vào các
lực lượng hạt nhân chiến lược mà xuất hiện các thành tố mới. Hiện
nay các mục tiêu quyết định của chiến tranh (tiêu diệt phần lớn các
mục tiêu quân sự và kinh tế, phá hủy hệ thống điều hành chính trị
và quân sự của đối phương) đã có thể đạt được mà không nhất thiết chỉ
bằng vũ khí hạt nhân.
Xuất hiện các
phương tiện phi hạt nhân mà công suất phá hủy của nó ngày càng gần
với công suất của vũ khí hạt nhân. Trong các thập kỷ tiếp theo chắc
chắn vũ khí chiến lược phi hạt nhân sẽ đạt tới trình độ phát triển có
thể tạo ảnh hưởng quyết định đến cân bằng chiến lược quân sự.
Vị trí hàng
đầu trong việc chế tạo loại vũ khí này sẽ vẫn thuộc về Mỹ.
4. Nội
dung mới trong cân bằng quân sự- chiến lược
Sự cân bằng
tổng thể sức mạnh trong thế giới đa cực hiện nay được cấu thành
từ rất nhiều yếu tố.
Công nghệ
phòng chống tên lửa, tiềm lực đòn đánh chớp nhoáng toàn cầu sử
dụng các đầu đạn thông thường, khả năng đưa vũ khí vào không gian
vũ trụ ngày càng có ý nghĩa quan trọng. Một sự mất cân bằng khá
lớn tồn tại ngay trong lĩnh vực vũ khí thông thường.
Mối liên hệ
ràng buộc qua lại của các yếu tố trên ngày càng trở nên rõ ràng
hơn. Nga cần và phải có một cách tiếp cận tổng thể mới để giải quyết
các vấn đề nảy sinh liên quan đến các bước tiến bộ nhảy vọt trong
công nghệ quân sự.
Một thực tiễn
rất đáng chú ý là ngay trong thập kỷ đầu của thế kỷ XXI, Bộ Tư
lệnh chiến lược Mỹ (BTLCL) đã được tiến hành tái tổ chức và tăng cường
các chức năng chủ chốt .
Trước đó, BTLCL
(Mỹ) chỉ gồm các lực lượng chiến lược của Không quân và Hải quân nhưng
hiện nay trong cơ cấu của nó đã bao gồm cả Bộ Tư lệnh các đòn phản
ứng nhanh toàn cầu (bao gồm cả vũ khí hạt nhân và phi hạt nhân), Bộ
Tư lệnh các phương tiện trinh sát và theo dõi, Bộ Tư lệnh vũ trụ, Bộ
Tư lệnh các phương tiện tích hợp phòng thủ tên lửa, Bộ Tư lệnh chiến
tranh mạng (do giám đốc cơ quan an ninh quốc gia phụ trách) và một
số cơ cấu khác.
Như đã nhiều
lần giới thiệu, vai trò quyết định trong quá trình chuyển hóa cân
bằng chiến lược là cuộc cách mạng trong lĩnh vực công nghệ thông
tin,- nếu thiếu nó thì trong điều kiện hiện nay thì các nền kinh tế
hiện đại và các quân đội không thể tồn tại được. Các phương tiện
tác chiến điện tử đã phát triển và trở nên phổ biến từ thế kỷ
trước.
Tuy nhiên các
phương tiện chiến tranh mạng hiện đại cho phép không cần dùng hỏa
lực cũng có thể có tiến công và làm đối phương hỗn loạn về kinh tế,
gián đoạn các chức năng điều hành các hệ thống năng lượng, vận
tải và thông tin, làm tê liệt các cơ quan điều hành chính trị và
quân sự.
Khoảng không
gian gần trái đất trong vòng nửa thế kỷ qua đã được sử dụng rộng
rãi cho các mục đích quân sự. Nhưng điều đó chỉ liên quan chủ yếu
đến các vệ tinh liên lạc và các thiết bị trinh sát vũ trụ.
Tình hình có
thể sẽ có những thay đổi cơ bản trong trường hợp bố trí trong vũ
trụ các hệ thống tấn công không chỉ được sử dụng để tiêu diệt các
thiết bị vũ trụ của đối phương mà còn sử dụng với mục đích
phòng thủ chống tên lửa và để tấn công các mục tiêu dưới mặt đất.
Các chiến
dịch mạng có thể bao gồm cả các hoạt động tấn công và phòng thủ
với mục đích chiếm ưu thế thông tin bằng cách phá hỏng các cơ sở
hạ tầng tương ứng của đối phương và tự bảo vệ mình trước các
hành động tấn công của đối phương vào các hệ thống thông tin của
mình.
Bên cạnh đó,
các chiến dịch mạng được coi là biện pháp thay thế việc sử dụng
hỏa lực để đạt được các mục đích quân sự mà không cần phải tiêu
diệt sinh lực và các mục tiêu của đối phương.
Các chuyên gia
Mỹ không ít lần tỏ ra quan ngại về một “Trân Châu Cảng trên mạng”.
Vào tháng 7/2011 BQP Mỹ công bố văn kiện “Chiến lược thực hành các
chiến dịch trong không gian mạng”.
Trong chiến
lược này Mỹ đã chỉ rõ : “Các mối đe dọa mạng đối với an ninh quốc
gia của Mỹ không chỉ liên quan tới các mục tiêu quân sự, mà là tất
cả các khía cạnh của cuộc sống xã hội”, văn bản này cũng đề cập
tới khả năng Mỹ sẽ tiến hành các đòn trả đũa các cuộc tấn công mạng
bằng bất kỳ phương tiện nào- kinh tế, chính trị, ngoại giao và cả
quân sự.
Lãnh đạo Bộ
Tư lệnh chiến lược Mỹ cũng đã tuyên bố về sự cần thiết phải nghiên
cứu các phương tiện tấn công và phòng thủ với một thuật ngữ mới là
“kiềm chế mạng”.
Một ví dụ
về phương tiện vũ khí tấn công mạng là Virus máy tính Stuxnet mà
Mỹ và
Chức năng của
BTL chiến tranh mạng bao gồm chuẩn bị, điều phối, tích hợp, đồng
bộ hóa các hoạt động nhằm tiến hành các chiến dịch bảo vệ các
mạng thông tin của BQP Mỹ, tiến hành các chiến dịch thông tin quân
sự để đảm bảo cho các hoạt động của LLVT trong tất cả mọi lĩnh
vực, bao gồm cả việc đảm bảo tự do hành động của LLVT Mỹ và đồng
minh trong không gian mạng, tiêu diệt các phương tiện thông tin của đối
phương.
Theo tuyên bố
của lãnh đạo tình báo Mỹ tại các buổi điều trần tại Quốc hội mới
đây về các vấn đề các mối đe dọa ninh quốc gia, sự quan ngại đặc
biệt trong an ninh mạng đối với Mỹ được xác định là xuất phát từ Nga
và Trung Quốc .
Sự phát
triển mạnh mẽ của công nghệ thông tin dẫn tới việc làm tăng độ chính
xác của các vũ khí tiêu diệt thông thường , mà trước hết là bom
hàng không và tên lửa có cánh. Trong bản báo cáo của Cơ quan nghiên
cứu Hạ viện Mỹ thì :
“Hợp chủng
quốc Hoa kỳ ngay từ thời kỳ đầu là nước đi tiên phong trong việc
nghiên cứu vũ khí chính xác cao và trong 20 năm qua vẫn giữ độc quyền
trong lĩnh vực này” .
Lần đầu tiên
vũ khí chính xác cao được sử dụng là trong chiến tranh ở Vùng Vịnh
Pecsich năm 1992 ( 8% tất cả các loại bom đạn được sử dụng ), và sau
đó tiếp tục được sử dụng rộng rãi hơn trong các chiến dịch ở
Kosovo (29%) , Apganistan (60%), Irắc ( 68% ) và Libi (chưa có số liệu).
Trong những
năm gần đây Mỹ sử dụng rộng rãi các phương tiện tiêu diệt có độ
chính xác cao trên các máy bay không người lái ở
Hải quân Mỹ
sở hữu một khối lượng lớn các tên lửa có cánh đặt trên tàu kiểu
“Tomahawk”. Theo các số liệu chính thức thì năm 2012 Mỹ có 3.755 tên
lửa có cánh loại này. Trong năm 2013, Hải quân Mỹ mua thêm 361 tên lửa có
cánh cho các tàu nổi và 123 tên lửa có cánh cho các tàu ngầm.
Một sự kiện
rất đáng quan tâm nữa là bản báo cáo được công bố tháng 5/2012 dưới
tiêu đề “Hiện đại hóa chiến lược hạt nhân” của Phong trào “Điểm
không toàn cầu". Trong số các tác giả của bản báo cáo này có
cựu Phó chủ tịch Hội đồng tham mưu trưởng liên quân ( Mỹ) và Tư lệnh
Bộ Tư lệnh chiến lược tướng G. Cartrite, cựu trưởng đoàn đàm phán Mỹ
tại các cuộc đàm phán về Hiệp ước vũ khí tấn công chiến lược
START-1 R. Bert, cựu thứ trưởng thứ nhất Bộ Ngoại giao Mỹ T. Pikering,
Cựu thượng nghị sỹ S. Heigen, tướng về hưu G. Shikheni và đồng sáng
lập phong trào “Điểm không toàn cầu” B. Blair.
Trong bản báo
cáo này có ý khẳng định rằng: Vũ khí phi hạt nhân tầm xa của Mỹ
có thể tiêu diệt đến 30 % các mục tiêu trên lãnh thổ Nga nằm trong
danh mục các mục tiêu của các phương tiện hạt nhân của Mỹ.
Nếu Nga thực
hiện chương trình thành lập hệ thống phòng thủ vũ trụ thì số
lượng các mục tiêu (trên lãnh thổ Nga) bị tiêu diệt sẽ giảm xuống
còn khoảng 10 %.
Danh mục các
mục tiêu (cần tiêu diệt) trên lãnh thổ Trung Quốc ít hơn khoảng 02 lần
so với ở Nga, nếu Mỹ sử dụng vũ khí thông thường chống TQ thì đã
có thể tiêu diệt được khoảng từ 30 đến 50 % số mục tiêu.
Vai trò chủ
chốt trong việc phát triển vũ khí chính xác cao thuộc về hệ thống
vũ trụ dẫn đường GPS. Liên Xô cũng có một hệ thống tương tự như
vậy và hiện nay là GLONASS của Nga . Hiện nay Nga vẫn duy trì hệ thống
này, Trung Quốc hiện cũng đang triển khai hệ thống vũ trụ dẫn đường
của mình.
Một trong
những hướng phát triển (vũ khí) rất có triển vọng nữa là vũ khí
lazer. Tuy nhiên các hệ thống Laser trên mặt đất và trên biển hiện
nay đang có hạn chế về cự ly hoạt động. Hiệu quả nhất có lẽ là
hệ thống laser đặt trên vũ trụ , nhưng trong thời gian hiện tại đấy
mới chỉ là các dự án trong thời kỳ nghiên cứu và thử nghiệm.
5. Đòn tấn công
chớp nhoáng toàn cầu
Trong thập kỷ
mới đây tại Mỹ đã đưa ra các phương án khác nhau của “đòn tấn công
chớp nhoáng toàn cầu” tính tới khả năng tiêu diệt bất kỳ mục tiêu
nào trên hành tinh trong vòng 01 giờ sau khi nhận lệnh.
Các phương
tiện được sử dụng cho một đòn tấn công như vậy là các tên lửa đạn
đạo xuyên lục địa và các tên lửa đạn đạo đặt trên tàu ngầm với
các đầu đạn thông thường (phi hạt nhân).
Mỹ đã tính
đến chuyện bố trí 02 tên lửa với đầu đạn thông thường trên mỗi tầu
ngầm chiến lược lớp “
Sau đó, đã
có một đề nghị bố trí tên lửa tầm trung (2000 đến 3000 dặm – 01 dặm
= 1.609m) với các đầu đạn thông thường trên các tàu ngầm tấn công
lớp “
Không quân Mỹ
bắt đầu nghiên cứu triển khai hệ thống FALCON có thể tiêu diệt mục
tiêu ở khoảng cách 9.000 dặm. Mỹ cũng dự định sử dụng máy bay không
người lái siêu âm HTV-2 với tầm bay 4.000 dặm. Hải quân Mỹ đã tiến
hành các thử nghiệm chế tạo hệ thống ArcLight sử dụng tầng một tên
lửa đánh chặn SM-3.
Cần phải
thấy rằng, trong bản báo cáo “Hiện đại hóa chiên lược hạt nhân” như
đã đề cập tới ở trên, các tác giả đề nghị triển khai 12 đến 20 tên
lửa đạn đạo xuyên lục địa với đầu đạn thông thường (Hypersonic
Technology Vehicle-2) ở California hoặc là tại các địa điểm khác trên
lãnh thổ Mỹ để các tên lửa này không phải bay qua lãnh thổ Nga và
Trung Quốc nhưng có thể tiêu diệt được 6 bệ phóng ngầm tên lửa của
Bắc Triều Tiên và Iran.
Theo đánh giá
của các tác giả bản báo cáo, Mỹ có thể sử dụng vũ khí thông
thường tiêu diệt 100% các mục tiêu cần phải tiêu diệt ở Bắc Triều Tiên
và Iran.
Một vấn đề
nữa có một ý nghĩa hết sức quan trọng là cán cân vũ khí thông
thường. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh Liên Xô và Tổ chức hiệp ước
Varszawa có một ưu thế đáng kể trước Mỹ và và NATO về vũ khí lục
quân, nhưng kém Phương Tây về vũ khí hàng không.
Hiện nay Mỹ
và các đồng minh của Mỹ vượt Nga rất nhiều lần về tất cả các
loại vũ khí thông thường.
Theo số liệu
chính thức mới nhất, 22 nước thành viên NATO tham gia vào hiệp ước
không phổ biến vũ khí thông thường hiện có ở Châu Âu 11.624 xe tăng,
22.788 xe chiến đấu bọc thép, 13.264 khẩu pháo cỡ nòng từ 100 mm trở
lên, 3.621 máy bay chiến đấu, 1.085 máy bay lên thẳng tấn công;
Còn về phía
Nga có – 3.660 xe tăng, 7.690 xe chiến đấu bọc thép, 4.634 khẩu pháo
cỡ nòng từ 100 mm trở lên,1.542 máy bay chiến đấu, 365 máy bay lên
thẳng chiến đấu.
Như vậy NATO
chiếm ưu thế so với Nga trong tất cả các loại vũ khí được quy định
trong Hiệp ước về vũ khí thông thường.
Cụ thể là: gấp
3,2 lần về xe tăn; 2,3 lần về xe chiến đấu bọc thép; 2,1 lần về
máy bay chiến đấu và 2,7 lần về máy bay lên thẳng tấn công.
Thêm nữa, đến
năm 2007 Nga đã tuyên bố về việc hoãn thực thi Hiệp ước về vũ khí
thông thường ở Châu Âu, và đến năm 2011 các nước thành viên NATO cũng
chấm dứt việc tuân thủ các điều kiện của Hiệp ước này.
Cần nhớ rằng
7 trong sô 29 thành viên NATO không tham gia Hiệp ước về vũ khí thông
thường, trong đó có Latvia, Extonia, Litva có biên giới trực tiếp với
Nga.
Hiệp ước về vũ
khí thông thường tại Châu Âu đã giữ một vai trò nhất định trong việc
làm dịu căng thẳng quân sự ở Châu Âu. Trong 20 năm Hiệp ước này có
hiệu lực các nước tham gia hiệp ước đã cắt giảm 70.000 đơn vị vũ
khí .
Tuy nhiên trong
mấy năm gần đây tại Châu Âu đã xảy ra một số cuộc chiến tranh, trong
đó có các cuộc chiến trên lãnh thổ Nam Tư (cũ) và Liên Xô ( cũ) và
mới nhất là cuộc xung đột tại Ukraine.
Tuy vậy, hiện
nay hàng năm vào giữa tháng 12 đại diện của 56 nước thành viên từng
tham gia Hiệp ước trên lại tập trung ở Vienna (Áo) để trao đổi thông
tin về các lực lượng vũ trang, tổ chức quân sự, quân số và các loại
vũ khí và trang thiết bị kỹ thuật quân sự cơ bản.
Các nước
cũng trao đổi thông tin về việc lập kế hoạch trong lĩnh vực quân sự
và ngân sách trong năm đó. Việc trao đổi thông tin toàn diện như vậy
được tiến hành theo các điều khoản của một công cụ quan trong hơn
trong lĩnh vực củng cố lòng tin và an ninh (MDB) trong khu vực an ninh
Châu Âu- Văn kiện Vienna năm 2011.
Tuy nhiên, cả
Hiệp ước (về vũ khí thông thường) lẫn văn kiện
Vai trò quyết
định hiện nay thuộc về các hệ thống vũ khí chính xác cao, máy bay
không người lái, và các hệ thống thông tin đảm bảo cho trinh sát,
điều hành tác chiến và chỉ huy bộ đội.
Các văn kiện
trên cũng không tính đến các hệ thống tấn công từ biển như tên lửa
có cánh và không quân của hải quân – những lực lượng đã được sử dụng
rất hiệu quả trong các cuộc xung đột quân sự mấy thập kỷ trở lai đây.
Các tiếp cận
như thế nào cho thích hợp?
Một thành tố
giữ vai trò ngày càng quan trọng trong cân bằng quân sự- chiến lược
nữa – đó là các hệ thống phòng không có chức năng đánh chặn các tên
lửa đạn đạo và tên lửa có cánh các lớp khác nhau. Tuy nhiên Mỹ đã
đơn phương rút ra khỏi Hiệp ước vào tháng 6/2002 .
Chính quyền
Tổng thống Bush con khi đó tuyên bố về dự định xây dựng hệ thống
phòng không theo tuyến đặt trên mặt đất, trên biển, trong không gian
và trên vũ trụ.
Dưới thời
Tổng thống Bush con, Mỹ đã lên kế hoạch triển khai 44 tên lửa GBI.
Ngoài ra Mỹ cũng dự định triển khai trận địa phòng không thứ 3 với
10 tên lửa đánh chặn hai tầng GBI ở Ba Lan (và còn ở một số nước Nam
Âu).
Chính quyền
B.Obama vào năm 2009 đã thay đổi cơ bản các ưu tiên của phòng thủ
chống tên lửa, tập trung sự quan tâm vào hệ thống phòng không chiến
trường. Mỹ đã quyết định hạn chế số lượng tên lửa chống tên lửa
GBI ở con số là 30.
Cùng thời
gian đó, B.Obama tuyên bố về việc từ bỏ nghiên cứu hàng loạt các
hệ thống phòng không chiến lược, trong đó có KEI, MKV và chương
trình vũ trụ cũng như việc bố trí trận địa thứ 3 ở Đông Âu. Đồng
thời tuyên bố về cách tiếp cận có điều chỉnh theo giai đoạn tại
Châu Âu (được chia thành 4 giai đoạn cho đến năm 2020.
Cách tiếp
cận này xem xét việc triển khai trong giai đoạn 4 (sau năm 2018 ) các
tên tên lửa đánh chặn đã được cải tiến SM-3 Block 2B có khả năng
đánh chặn “hạn chế” các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Từ đây xuất
phát sự quan ngại về việc Mỹ có thể triển khai hệ thống phòng
không chiến lược theo tuyến trong tương lai.
Theo tuyên bố
của Giám đốc cơ quan phụ trách hệ thống phòng thủ chống tên lửa Mỹ
Patric O Raily thì, “ trước hết chương trình SM-3 Block2B “ có chức
năng đánh chặn các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa, và nó cũng được
nghiên cứu cho chính mục đích ấy”.
Ngoài ra, Mỹ
cũng đang xem xét việc bố trí các tên lửa đánh chặn SM-3 trên các
tàu Hải quân Mỹ đang được trang bị hệ thống “ Eagic”.
Đến năm 2020
sẽ có khoảng 94 tàu Mỹ như vậy được trang bị hàng trăm tên lửa
đánh chặn. Số lượng các tàu được trang bị như vậy thuộc biên chế của
Hạm đội Đại Tây Dương của Mỹ có thể lên đến con số 20 .
Trong số đó
có khoảng 1/3 sẽ được bố trí ở Biển Địa Trung hải và Biển Bắc. Có
tàu này có thể định kỳ đi vào các biển nằm ngay biên giới Nga như
Biển Đen, Biển Ban tích, Biển Baren. Và điều đó có nghĩa là làm
tăng khả năng các tên lửa đạn đạo xuyên lục địa của Nga bị đánh chặn
ngay ở đoạn giữa quỹ đạo bay.
Một bản báo
cáo gây tranh cãi khác của các chuyên gia về NMD đã được công bố
tháng 4/2011 dưới sự bảo trợ của Viện Hàn lâm khoa học quốc gia .
Nhóm tác giả dưới sự chủ trì của David Montagu, cựu chủ tịch Cơ quan
nghiên cứu tên lửa của Hãng Lochheed và U. Sloykomb và cựu thứ trưởng
Bộ Quốc phòng dưới thời B. Clinton đã chuẩn bị và cho công bố bản bản cáo
như đã nói ở trên.
Theo đánh giá
của các tác giả bản báo cáo thì hệ thống NMD “ Eagic”, THAAD và
“Patriod-3” hoàn toàn có thể bảo vệ có hiệu quả lực lượng Quân đội Mỹ và
đồng minh ở Châu Âu, tại Trung Cận Đông và phần phía tây của Thái
Bình Dương trước các mối đe dọa tên lửa đạn đạo tầm trung và tầm
ngắn.
Bản báo cáo
trên cũng khẳng định là nếu tốc độ của tên lửa đánh chặn không ít hơn
4m/s thì để bảo vệ Châu Âu cần 3 đến 4 kh vực NMD đặt trên đất liền
và triển khai trên biển.
Sự hiện diện
của các tên lửa đánh chặn như vậy cũng chp phép bảo vệ Mỹ trước
các nỗ lực của đối phương ngăn các lực lượng của Mỹ tiếp cận Tây
Thái Bình dương và cũng có thể bảo vệ các căn cứ ở Guam và
Okinawa.
Nếu các biện
pháp trên được thực hiện đầy đủ thì Mỹ không cần thiết phải tiến
hành giai đoạn 4 của “Cách tiếp cận có điều chỉnh” và triển khai các
tên lửa đánh chặn SM-3 Block2B ở Ba Lan và các khu vực khác.
Theo quan điểm
của các tác giả, giai đoạn 4 không cần thiết đối với cả NMD và acr
trên chiến trường và không phải là phương án tối ưu bảo vệ lãnh thổ
Mỹ. Để bảo vệ lãnh thổ Mỹ, các chuyên gia tác giả báo cáo cho rằng
cần phải thành lập khu vực phòng thủ thứ 3 NMD chiến lược trên
vùng duyên hải phía đông của Mỹ.
Để đạt mục
đích này các chuyên gia khuyến cáo chế tạo các tên lửa đánh chặn
chiến lược mới KEI cấp 1 và cấp 2 mà Chính quyền B. Obama đã cho
dừng dự án vào năm 2009.
6. Một số ý cuối
Tất cả các số
liệu và luận chứng đã dẫn ở trên cho thấy trong thế giới đa trung tâm như
hiện nay thì sự cân bằng cán cân quân sự- chiến lược không thể chỉ
liên quan đến Lực lượng vũ khí hạt nhân chiến lược của Mỹ và Nga mặc
dù 2 nước này sở hữu đến 90 % kho vũ khí hạt nhân.
Hiện nay,
ngoài Mỹ và Nga thì một số các nước khác sở hữu khoảng 1.000 đầu
đạn hạt nhân, đó là các nước Trung Quốc, Pháp, Anh, Ấn Độ, Pakistan,
Israel và Bắc Triều Tiên.
Tuy nhiên, số
lượng vũ khí hạt nhân mà các nước trên sở hữ không lớn (so với Nga và Mỹ)
hoàn toàn không có nghĩa là các cường quốc hạt nhân đó có thể vẫn
tiếp tục đứng ngoài chế độ kiểm soát vũ khí hạt nhân. Các nước
trên phải dần dần tham gia vào hiệp ước.
Tiến trình
giải trừ quân bị, trong đó có vũ khí hạt nhân, phải không chỉ là
tiến trình song phương mà phải mang tính chất đa phương. Nội dung kiểm
soát vũ khí hạt nhân cần phải có các giải pháp đa phương để giải
quyết các vấn đề đang tồn tại. Điều đó đòi hỏi các nước thuộc
“câu lạc bộ hạt nhân” đã ký Hiệp ước về không phổ biến vũ khí
hạt nhân tham gia vào tiến trình đàm phán.
Việc Trung
Quốc tham gia vào tiến trình này có một ý nghĩa đặc biệt vì nước
này có từ 55 đến 65 tên lửa đạn đạo xuyên lục địa và có khả năng
tăng nhiều lần kho vũ khí hạt nhân của mình.
Vì phần lớn
các hệ thống tên lửa, máy bay tầm xa và máy bay không quân chiến
trường của TQ có chức năng kép, có nghĩa là có thể sử dụng với
vũ khí thông thường và vũ khí hạt nhân, rất nhiều các chuyên gia
cho rằng kho vũ khí hạt nhân của Trung Quốc nhiều hơn rất nhiều so
với số liệu mà Phương Tây đưa ra (180- 220 đầu đạn).
Tình hình
càng phức tạp hơn khi có nhiều cơ sở để khẳng định về sự hiện
diện các đường ngầm khổng lồ dưới mặt đất tại Trung Quốc có thể
bí mật cất giữ các kho vũ khí hạt nhân của nước này. Nhiều chuyên
gia Mỹ khẳng định rằng Trung Quốc đã không còn tuân thủ ngưỡng kiềm
chế tối thiểu mà theo đuổi các mục đích tham vọng hơn là sẽ đuổi
kịp các cường quốc hạt nhân (Mỹ và Nga) vào giữa thế kỷ XXI.
Một sự không
minh bạch như vậy sẽ gây khó khăn cho việc tiếp tục cắt giảm vũ khí
hạt nhân của Mỹ và Nga.
Còn một
nhiệm vụ phức tạp nữa – đảm bảo việc thống kê tiềm lực hạt nhân
của các quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân nhưng không tham gia Công
ước không phổ biến vũ khí hạt nhân: Israel, Ấn Độ, Pakistan, Bắc
Triều Tiên trong các tiến trình đàm phán cắt giảm vũ khí hạt nhân.
Cần phải tìm
ra cách tiếp cận có thể chấp nhận được để thuyết phục các nước trên
rằng các tiềm lực hạt nhân của họ cần phải được thống kê trong tiến
trình giải trừ vũ khí.
Toàn những
nhiệm vụ (nói đúng ra là sứ mệnh) không dễ dàng chút nào.
Nhân đây xin
cung cấp thêm một thông tin không mấy lạc quan: ngày 11/02/2015 , Viện nghiên
cứu chiến lược quốc tế ( IISS) cho công bố tại London một bản báo cáo với
tiêu đề “Cán quân quân sự 2015” trong đó có chi tiết là chi phi quân sự trên
thế giới năm 2014 đã tăng lên 1,4% - lần đầu tiên kể từ năm 2010 (năm Mỹ và
Nga ký Hiệp ước mới về hạn chế vũ khí tấn công chiến lược).
Có vẻ như một
cuộc chạy đua vũ trang mới (đối xứng hay phi đối xứng) là khó tránh khỏi.
(Theo Đất Việt)
Lê Hùng dịch và giới
thiệu
|
Thứ Ba, 17 tháng 2, 2015
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét