Thí điểm đưa tiếng Hàn thành ngoại ngữ 1 là việc làm
vội vàng Cập nhật lúc 08:35 Nhìn từ bất kỳ góc độ nào, việc đưa thêm tiếng Hàn thành ngoại ngữ 1, dù chỉ là “thí điểm” cũng là một việc làm vội vàng. Không ít ý kiến cho rằng Việt Nam chưa có (hay không có?) “Triết lý giáo dục”, người viết tuyệt không phản đối dù biết một số cây đa cây đề đã nhiều lần đăng đàn giới thiệu “Triết lý giáo dục Việt Nam”. Lại có một số ý kiến cho rằng Việt Nam không có “Chiến lược giáo dục”, về những ý kiến này, người viết “cực lực” phản đối. Bởi chỉ cần tìm hiểu đôi chút, có thể thấy “Chiến lược giáo dục” của xuyên suốt mấy chục năm qua của giáo dục Việt Nam là “Thí điểm, thí điểm và… thí điểm”. Xin nêu ba dẫn chứng: Thứ nhất, nền giáo dục Việt Nam từng tồn tại một cuộc “Trường kỳ thí điểm” kéo dài hơn 40 năm, đó là thí điểm dạy học sinh theo sách giáo khoa Công nghệ Giáo dục. Cuối năm 2018, trước khi nổ ra câu chuyện “Tranh cãi gay gắt khi đối thoại về sách giáo khoa công nghệ của GS Hồ Ngọc Đại” giữa các vị biên soạn bộ sách và thành viên Hội đồng thẩm định sách giáo khoa, báo điện tử Đài tiếng nói Việt Nam (Vov.vn) đã đánh giá: “Sách công nghệ giáo dục thí điểm 40 năm vẫn chưa là sách giáo khoa chính thức”. [1] Cho đến nay, đây là lần “thí điểm” dài nhất lịch sử giáo dục Việt Nam. Thứ hai, thí điểm “Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN)” Báo Nhandan.com.vn, Cơ quan trung ương của Đảng Cộng sản Việt Nam trong bài “Thấy gì về thực hiện thí điểm mô hình trường học mới VNEN ở Nghệ An” viết: “Nghệ An là một trong 20 tỉnh, thành phố trong cả nước được chọn thí điểm thực hiện dự án mô hình trường học mới VNEN. Thế nhưng, sau bốn năm triển khai, mô hình này đã bộc lộ nhiều khó khăn, bất cập”. [2] Một bài báo khác dẫn giải chi tiết hơn: “Dự án Mô hình trường học mới tại Việt Nam (VNEN) được ngành Giáo dục và Đào tạo triển khai trong giai đoạn 2013 - 2016 tại 63 tỉnh, thành phố trên toàn quốc với 1447 trường Tiểu học tham gia, trong đó 54 tỉnh, thành phố triển khai nhân rộng áp dụng Mô hình trường học mới tại 2365 trường tiểu học và hơn 1000 trường trung học cơ sở”. [3] Đây là cuộc “thí điểm” có quy mô lớn nhất Việt Nam (về đơn vị hành chính) bởi được thực hiện (theo bài báo nêu trên) tại 63 tỉnh, thành phố.
Thứ ba, cuộc “thí điểm” thứ ba là thí điểm phân ban giáo dục phổ thông, bắt đầu từ năm học 2003 – 2004 với khoảng 50 trường thuộc 11 tỉnh, thành phố, theo đó ngành Giáo dục quy định có 02 ban: Ban A (Ban khoa học tự nhiên) và Ban C (Ban khoa học xã hội), đến năm học 2006 – 2007 thì thêm Ban B (Ban cơ bản). Dư luận trong nước đánh giá: “Từ năm 2014, đề thi tuyển sinh đại học, cao đẳng đã bỏ phần nâng cao - được coi là dấu chấm hết cho chương trình phân ban trung học phổ thông của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thất bại của chương trình này gây nên sự lãng phí rất lớn về sức người, sức của”. [4] Sự chú ý của dư luận về cuộc “thí điểm” thứ ba này không tập trung vào “không gian và thời gian” mà liên quan đến “sự lãng phí rất lớn về sức người, sức của”. Nếu kể về “lãng phí” thì còn phải nói đến “Đề án Ngoại ngữ quốc gia 2020 thất bại, vì đâu?” [5] nhưng đây không phải là “thí điểm” nên không liệt kê.
Chỉ ba cuộc “thí điểm” nêu trên đã bao quát toàn bộ mọi hoạt động của nền giáo dục nước nhà, từ không gian, thời gian đến nhân, tài, vật lực, từ đứa trẻ mới học đánh vần đến các giáo sư nổi tiếng, từ nhà giáo mầm non đến các Bộ, Thứ trưởng,… Khoảng thời gian được chính thức thừa nhận (trong các văn bản ngành và truyền thông) của các loại “thí điểm” mà ngành Giáo dục áp dụng, tính cho đến nay tối thiểu cũng là 40 năm. Trong thế kỷ 20, để chiến thắng các đạo quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới bảo vệ độc lập cho tổ quốc, tự do cho dân tộc, người Việt đã phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài cũng khoảng 40 năm. Trong đó: Kháng chiến chống pháp kéo dài 9 năm (1945 – 1954); Kháng chiến chống Mỹ kéo dài 21 năm (1954 – 1975); Cuộc chiến chống bọn diệt chủng Khmer Đỏ và quân Trung Quốc xâm lược tại biên giới phía Tây Nam và phía Bắc kéo dài khoảng 10 năm (1979 – 1989). Người Việt đã chiến thắng trong mọi cuộc chiến tranh bảo vệ tổ quốc nhưng có phải cũng chiến thắng trong trận chiến giáo dục?
Người Việt có câu “Quá tam ba bận” lẽ ra chỉ nên đưa ra dẫn chứng về ba lần thí điểm (dù còn khá nhiều “thí điểm” khác có thể đề cập) xong mấy hôm nay lại thấy Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa thêm một “Thí điểm” nữa nên đành phải viết thêm đôi dòng. Ngày 09/02/2021, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Quyết định số 712/QĐ-BGDĐT về “Chương trình giáo dục phổ thông môn tiếng Hàn, tiếng Đức hệ 10 năm thí điểm”. Chương trình thực hiện giảng dạy cho học sinh từ lớp 3 đến lớp 12. Hiện nay học sinh khối phổ thông bắt buộc phải học một ngoại ngữ (gọi là Ngoại ngữ 1) và được tự chọn thêm ít nhất một ngoại ngữ khác (gọi là Ngoại ngữ 2) theo nguyện vọng cá nhân và khả năng đáp ứng của cơ sở giáo dục. (Ảnh minh hoạ: Vieclamhanquoc.vn) Tính gộp lại hiện có 07 ngoại ngữ được chọn làm ngoại ngữ 1 bao gồm Tiếng Anh, Tiếng Nga, Tiếng Pháp, Tiếng Trung Quốc, Tiếng Nhật, Tiếng Hàn, Tiếng Đức.
Câu hỏi đặt ra là dựa vào tiêu chí nào Bộ Giáo dục và Đào tạo chọn đưa tiếng Hàn (tiếng Triều Tiên) thành ngoại ngữ 1?
Câu trả lời của Bộ Giáo dục và Đào tạo là:
“Môn tiếng Hàn đem đến cho học sinh một ngoại ngữ mới, một công cụ cho các em có thể giao tiếp, trao đổi thông tin với người Hàn, tìm hiểu về đất nước Hàn Quốc, so sánh với Việt Nam, góp phần tăng cường quan hệ hiểu biết giữa hai dân tộc, phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân, hình thành ý thức công dân toàn cầu…”. Vì những người chắp bút đã nói đến tác dụng của tiếng Hàn là “phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân, hình thành ý thức công dân toàn cầu” nên không thể không tìm hiểu đôi chút về các ngôn ngữ phổ biến nhất thế giới.
Theo một nghiên cứu được đăng trên The Washington Post, các ngôn ngữ được sử dụng làm ngôn ngữ chính thống nhiều nhất thế giới lần lượt là tiếng Trung Quốc khoàng 1,4 tỷ người, tiếng Hin-ddi và Urdu (Ấn Độ) khoảng 588 triệu người, tiếng Anh khoảng 527 triệu người, tiếng Arabic khoảng 467 triệu người, tiếng Tây Ban Nha khoảng 389 triệu, tiếng Nga khoảng 254 triệu người, tiếng Bengali khoảng 250 triệu người, tiếng Indonesia (Malay) khoảng 230 triệu người,… Dân số cả hai miền Triều Tiên vào khoảng 80 triệu người (riêng bắc Triều Tiên có gần 26 triệu người), dân số Việt Nam là gần 100 triệu người. Trong số các ngôn ngữ được học nhiều nhất thế giới thì tiếng Anh khoảng 1,5 tỷ người, tiếng Pháp - 82 triệu, tiếng Trung - 30 triệu, tiếng Tây Ban Nha và tiếng Đức đều khoảng 14,5 triệu người, tiếng Nhật là 3 triệu, không thấy thống kê tiếng Hàn. Như vậy với ý tưởng “phát triển phẩm chất và năng lực cá nhân, hình thành ý thức công dân toàn cầu” mà Bộ Giáo dục và Đào tạo đưa ra thì chọn ngôn ngữ nào thêm vào các “ngoại ngữ 1” không phải chỉ dựa vào ý kiến chủ quan của một số chuyên viên cơ quan bộ. Ấn Độ có hơn 1 tỷ dân, các nước Mỹ La tinh phần lớn nói tiếng Tây Ban Nha, trừ Brazil nói tiếng Bồ Đào Nha. Việt Nam và Ấn Độ có quan hệ đối tác chiến lược, với thị trường hơn một tỷ dân, với quan hệ rất tốt đẹp về kinh tế, ngoại giao, quốc phòng,… vì sao không chọn tiếng Ấn Độ (hoặc tiếng Tây Ban Nha) mà lại chọn tiếng Hàn? Phải chăng vì số doanh nghiệp Hàn Quốc tại Việt Nam khá đông và số cô dâu Việt tại Hàn Quốc hiện nay chiếm tỷ lệ cao nhất trong số cô dâu ngoại (Theo số liệu của Văn phòng Di trú Hàn Quốc, hiện có khoảng 152.000 cặp vợ chồng Việt - Hàn tại nước này”. [6] Nhìn từ bất kỳ góc độ nào, việc đưa thêm tiếng Hàn thành ngoại ngữ 1, dù chỉ là “thí điểm” cũng là một việc làm vội vàng.
Vấn đề là Bộ Giáo dục và Đào tạo sẽ thực hiện “thí điểm” trong bao nhiêu lâu hay sẽ lại là một cuộc “trường kỳ thí điểm” không có điểm dừng? Người Việt có câu “Một nghề thì sống, đống nghề thì chết”, lại còn câu “Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh”, sử dụng thành thạo tiếng Anh, tiếng Tây Ban Nha có thể nói chuyện với hầu hết dân chúng châu Âu, châu Mỹ, biết tiếng Hàn giao tiếp được với bao nhiêu triệu người? Trước khi “thí điểm”, tiến hành thăm dò ý kiến các nhà khoa học, dư luận truyền thông, thu thập thêm tỷ lệ lựa chọn của học sinh đối với tiếng Hàn rồi hãy ban hành quyết định, điều tưởng chừng đơn giản như vậy sao lại không được thực hiện? Quyết định đã ban hành rồi, chẳng lẽ “cứ để vậy xem sao”? Tài liệu tham khảo: [1] https://vov.vn/xa-hoi/giao-duc/sach-cong-nghe-giao-duc-thi-diem-40-nam-van-chua-la-sgk-chinh-thuc-806649.vov [2] https://nhandan.com.vn/tin-tuc-giao-duc/thay-gi-ve-thuc-hien-thi-diem-mo-hinh-truong-hoc-moi-vnen-o-nghe-an-273555/ [3] http://daibieunhandan.dienbien.gov.vn/Article/3325/NGANH-GIAO-DUC-VA-DAO-TAO-CAN-TONG-KET-TRIEN-KHAI-MO-HINH-TRUONG-HOC-MOI-VNEN.html [4] https://nld.com.vn/giao-duc-khoa-hoc/lang-phi-chuong-trinh-phan-ban-2014120222204462.htm [5] https://baoquocte.vn/de-an-ngoai-ngu-quoc-gia-2020-that-bai-vi-dau-39673.html [6] https://thanhnien.vn/doi-song/co-dau-viet-tai-han-quoc-ngay-cang-nhieu-901490.html (*) Văn phong, nội dung bài viết thể hiện góc nhìn, quan điểm của tác giả. (Theo GDVN) Xuân Dương |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét