CAO BẰNG ĐẦU NĂM 1979 (kỳ 18) Cập nhật lúc 10:01
Bọn địch bắt đầu tiến lên dãy núi đá truy kích tiểu đoàn chúng tôi. Chúng nó đánh chỗ này chúng tôi lại cơ động sang nơi khác, vòng vèo đuổi nhau qua từng thung lũng. Nhiều lúc bị bọn chúng truy đuổi tôi chỉ ước gì còn thật nhiều đạn, nhiều quân để quyết tử với chúng một trận. Tôi không thành thạo địa hình khu vực núi đá này nên không biết là đang đi đâu, đang ở đâu. Có lệnh là đi, bảo dừng lại nghỉ là dừng lại cho anh em tìm chỗ mắc võng hay rải lá làm nơi nằm nghỉ. Trong bao lô của tôi chỉ còn một cái tăng và cái võng. Ở núi đá trơ trụi khó mà căng tăng võng. Khi trời tạnh thì rải tăng xuống đất làm chiếu, võng đắp làm chăn. Khi trời mưa hay sương mù ẩm thấp thì rải võng xuống đắp tăng cho đỡ ướt. Khi mới lên núi còn tấm vải liệm liệt sĩ đắp thêm nên cũng đỡ lạnh. Sau đó tấm vải liệm phải dùng đến, tôi trao cho anh em đem đi mai táng liệt sĩ. Nhiều đêm lạnh quá không tài nào mà ngủ được. Nếu như ở đồng bằng vài anh em nằm gần nhau có hơi người cũng đỡ rét. Nhưng trên sườn núi, khe đá chả có chỗ nào rộng để hai người trải tăng cùng nằm chung được với nhau cả. Một bữa tôi đang ngồi ở trong một hốc đá ghi chép thì thằng Châu đi đâu về tìm đến thông báo: - Anh Hà Trung Lợi, tiểu đội trưởng hữu tuyến đã tìm được về với đơn vị rồi đấy anh ạ! - Anh ấy đang ở đâu? Tôi hỏi và nhét cây bút chì cùng cuốn sổ vào cóc ba lô đứng ngay dậy. Thằng Châu nói tiếp: - Anh ấy đang gặp chỉ huy tiểu đoàn để cáo cáo tình hình, lát anh sẽ về với trung đội thông tin. Thằng Châu chưa nói dứt câu đã thấy Hà Trung Lợi lù lù đeo sung mò đến. Tôi hỏi ngay: - Hôm trước anh em Đại đội 10 rút lên đây nghe nói bộ phận do mày chỉ huy bị “cắt đuôi”, lạc mất đội hình, không biết sống chết ra sao làm bọn tao lo quá. Hà Trung Lợi cười hiền lành: - Thì đến gần sáng ngày 22-2, Đại đội 10 cùng số anh em của tiểu đoàn bộ và của Đại đội 11 được lệnh rút lên núi đá. Bộ phận tao đi sau, lúc qua bản Nà Nghiềng bị bọn chúng phát hiện chặn đánh. Tao phải dẫn một số anh em chạy xuống hướng bản Nà Cháo rồi mới vượt qua cánh đồng sang dãy núi đá... - Mọi người an toàn cả chứ? Thằng Lợi có vẻ buồn bã nói: - Một số anh em không rõ địa hình và tình hình đich nên cứ thẳng đường từ Nà Cháo chạy xuống phía xã Quý Quân bị lọt vào ổ phục kích bị chúng nó bắn chết hết... chúng nó còn mổ bụng, băm xác họ ra nữa... Từ trên sườn núi tao nhìn thấy mà thương anh em quá... Lúc này tôi mới nhìn kỹ mặt thằng Lợi và kêu lên: - Tại sao mặt mũi mày sước rách bươm hết thế? Bị mảnh lựu đạn à? - Không... chuyện này dài lắm... Có nước cho tao một hớp? Thằng Châu vội đưa cho Lợi cái bi đông. Thằng Lợi uống một ngụm nước rồi ngồi xuống phiến đá cạnh tôi. Nó gác khẩu AK vào vách núi rồi kể vì sao mặt mũi nó sước rách be bét như thế: “- Buổi chiều hôm cuối cùng trên chốt của Đại đội 10 ở thị trấn Sóc Giang, bọn địch chỉ bắn cầm chừng. Hình như chúng đang củng cố lại đội hình chuẩn bị cho một đợt tấn công quyết liệt hơn. Tao quan sát phía các bản Kép Ké, Cốc Sâu cẩn thận rồi gọi một chiến sĩ trong trung đội đang ôm súng ngồi dưới chiến hào: - Hùng ơi! Tao với mày xuống đoạn đường bọn địch nằm chết ngổn ngang chỗ bụi tre kia kiếm một ít đạn và xem bọn chúng có lương khô, lương khiếc gì không. Đói lắm rồi mà không thấy nuôi quân đem cơm lên gì cả. Kiểu này tất cả tập trung đánh nhau với bọn Tàu rồi chắc chả còn ai nấu nướng cơm nước gì nữa đâu. Mà mấy hôm nay nó đánh ác liệt thế không hiểu Đại đội 10 họ nấu ăn thế nào được nhỉ? - Chắc là anh em Đại đội 10 họ chỉ ăn toàn gạo sấy thôi! Tao bảo: - Thế nên tao với mày xuống chỗ bọn giặc chết kiếm ít đạn và xem chúng nó có lương khô hay cái gì ăn được không nhé? Thời đánh Mỹ, Trung Quốc có các loại lương khô 701 và 702 viện trợ cho ta, ăn ngon lắm! Thằng Hùng ôm cái bụng đói nói: - Thế thì tuyệt quá! Để em đi trước. Thằng Hùng nói và xách súng toài xuống chân dốc. Tao cũng lập tức chuội người theo sát phía sau. Hai anh em mò xuống mặt đường ngổn ngang xác những tên giặc bành trướng xâm lược. Cả hai lom khom nhặt mấy khẩu súng, gỡ lấy bao đạn và ba lô của bọn địch. Tao vừa định gỡ cái ba lô trên lưng một tên địch đang nằm úp mặt vào thành ta-luy đường thì cái “xác” ấy quay ngoắt lại ngồi bật dậy. Hóa ra là nó giả vờ chết. Tay phải nó vung lên. Tao hét to: - Lựu đạn đấy! Nằm xuống! Nhanh như cắt, tao nhào người lăn về phía ta-luy âm. Trước khi phóng người lao xuống đám cây xấu hổ đầy gai góc um tùm tao còn kịp xiết cò găm một loạt đạn AK vào tên giặc giả chết. Cánh tay của thằng giặc vừa vung lên liền rũ xuống. Quả lựu đạn tuột khỏi bàn tay nó rơi xuống mặt đường lăn ngược trở lại chỗ nó đang nằm. Một tiếng nổ vang lên. Khói bụi đất cát văng mù mịt. Tao lồm cồm nhổm dậy hốt hoảng gọi: - Hùng ơi… Hùng ơi… - Em đây… em vẫn an toàn. Anh... anh có việc gì không? Thằng Hùng cũng đang chui ra từ trong bụi cây xấu hổ dưới mép đường. May quá nó cũng không việc gì. Cả hai chỉ bị gai xấu hổ cào sướt hết mặt mũi, máu chảy túa ra. Tao vội bảo nó: - Tao không việc gì! Mẹ cha thằng Tàu khựa khốn kiếp… Suýt nữa thì chúng mình toi mạng oan với nó… Thôi, rút ngay! Tao và thằng Hùng xách mấy thứ thu được vội vàng leo trở lại công sự. Có tiếng nổ đầu nòng và tiếng đạn pháo bay rít trên đầu. Vừa chui vào trong hầm, thằng Hùng đã vội mở hai cái ba lô lấy được của bọn địch. Chả có cái gì ngoài mấy bộ quần áo cũ và cái bi đông cạn khô. Nó dốc ngược một chiếc ba lô. Mấy củ khoai lang sống từ túi cóc ba lô lăn ra nền đất. Có một củ đang ăn dở. Chắc thằng giặc đói này vừa mới cướp được ở bản Kép Ké. Thằng Hùng bực bội chửi đổng: - Mẹ kiếp! Cái đồ nghèo kiết xác, chết đói, chết khát thế này mà cũng đòi đi xâm lược! Tao phì cười bảo: - Thôi lại đành nhai tạm chút gạo sấy cho đỡ đói vậy! Tao mở ba lô của mình lấy ra một túi ni-lông còn chút ít gạo sấy. Từng người lần lượt thò tay vốc một nhúm ngậm vào trong miệng. Rồi họ chuyền tay nhau cái bi đông đựng nước suối, mỗi người tợp một ngụm. Ngậm nước suối và gạo sấy trong miệng một lúc chờ cho hạt gạo trương lên, mềm đi rồi bắt đầu nhai cho đỡ đói. (Nếu bạn đọc muốn biết thứ gạo sấy mà những người lính chúng tôi đã được cấp phát để ăn trong chiến tranh ngày ấy như thế nào thì có thể tự mình làm thử. Bạn hãy lấy một ít cơm nguội để từ hôm trước ném vào nước lạnh ngâm cho nó trương lên, hoặc vớt một ít cơm còn lại trong chậu sau khi rửa bát ăn thử là biết. Gạo sấy của người lính biên cương ngày ấy giống hệt như vậy. Nó nhạt nhẽo vô cùng, nhưng ngày ấy chúng tôi cũng chả có đủ mà ăn lấy sức trong những ngày đánh nhau với bọn Tàu khựa). Buổi chiều 21-2, bọn địch tổ chức thêm một đợt tấn công nhưng có vẻ không quyết liệt lắm. Thêm mấy chục tên địch nữa bị tiêu diệt. Cuối buổi chiều xuất hiện một chiếc xe tăng địch tiến vào trận địa của ta. Có điều lạ là chiếc xe tăng này không bắn. Nòng pháo trên xe quay ngang. Bọn bộ binh địch hình như không phải là sẽ tấn công lên trận địa của quân ta. Chúng tiến chậm chạp sau xe tăng là để lôi xác đồng bọn bị chết từ đợt tấn công buổi sáng và đầu buổi chiều về phía sau. Nhận ra hành động này của bọn địch, đại đội trưởng Đại đội 10 Nông Xuân Bổng hạ lệnh cho toàn đại đội ngừng bắn để cho bọn giặc đem xác chết đồng bọn ra khỏi trận địa. Lũ giặc thấy hoả lực của ta lắng đi vội lao vào lôi xác đồng bọn chạy ra xa. Chúng xếp những xác chết thành hàng lối như một đội hình thẳng hàng trên con đường phía trước thị trấn. Quan sát hành động của chúng, tất cả các chiến sĩ trên trận ai cũng ngạc nhiên thắc mắc, không hiểu vì sao. Họ nhao nhao gọi hỏi nhau: - Chúng nó định làm cái gì thế? Từ nãy đến giờ đại đội trưởng Nông Xuân Bổng vẫn chú ý quan sát mọi hành động của bọn địch. Nghe mọi người í ới gọi hỏi nhau, anh thủng thẳng bảo: - Chắc là bọn chúng quyết tâm tiến vào thị trấn Sóc Giang bằng con đường của những xác chết đấy! Chúng nó sẽ được toại nguyện...”. Nghe câu chuyện của thằng Lợi kể tôi thốt lên: - Ngày cuối cùng chúng mày ở lại Sóc Giang đúng là nguy hiểm quá? Thằng Lợi bảo: - Lúc đánh nhau không sợ. Lúc vượt vây tao bị một tình huống còn nguy hiểm và sợ hơn nhiều... Đấy là lúc bò qua cánh đồng bản Nà Cháo sang chân núi đá. Bọn bộ binh địch đi đầu trên con đường từ thị trấn Sóc Giang xuống phía bản Nà Cháo. Tao đang nép vào một bờ ruộng để bò lê đi thì có tiếng lịch bịch phía sau. Tao ngoái cổ nhìn lại. Một con trâu mẹ và một con nghé đang đi theo ngay phía sau tao. Đó là trâu của bà con trong các bản nghe pháo bắn phá chuồng chạy ra cánh đồng. Con trâu mẹ vừa cúi đầu gặm cỏ giật mình ngóc đầu lên nhìn. Khi thấy tao đang nằm ép mình bên bờ ruộng chắc là nó ngạc nhiên không hiểu vì sao. Khi tao bò đi hai mẹ con con trâu cũng lững thững đi theo. Con nghe lại còn tiến lại gần ghé mũi "khịt... khịt..." vào người tao nữa chứ. Tình huống nguy hiểm quá. Tao nhìn chằm chằm vào mắt con trâu mẹ như muốn bảo nó hãy dẫn con chạy đi. Tao khẽ: “Xuỳ… xuỳ…xuỳ…” mấy tiếng để xua đuổi nó. Nhưng mẹ con con trâu vẫn không hiểu cứ đứng sững nhìn tao nằm ép người xuống mặt ruộng. Tao lo quá. Bọn địch đang hành quân trên đường trông thấy hai con trâu ngứa mắt lia cho một loạt đạn thì nguy to. Tao vừa định đưa nòng súng ra để dọa hai con trâu thì bỗng đất đá tới tấp ném đến. Một người dân binh Trung Quốc đang đứng trên đường ném xuống để lùa hai con trâu đi theo đàn trâu mà họ vừa ăn cướp được trong các làng bản của chúng ta. Một hòn đá ném trúng lưng tao. Đau quá tao khẽ vặn người. Hai con trâu lồng lên chạy thẳng sang phía chân núi đá. Bọn địch cũng không phát hiện ra tao đang nằm khuất sau bờ ruộng thấp... Câu chuyện của thằng Lợi đang hấp dẫn thì có lệnh hành quân. Trinh sát báo về bọn địch đang tiến đến đầu Lũng Vỉ. Tôi và thằng Lợi vội vàng khoác ba lô lên vai, xách súng chạy theo anh em. Mỗi thằng đi một hướng. Mãi đến sau khi chiến tranh kết thúc tôi mới gặp lại thằng Lợi. Hà Trung Lợi đã ra quân, hiện sinh sống ở Thanh Sơn, Phú Thọ, lấy vợ là gái Thái Bình lên đây khai hoang. Gần bốn mươi năm sau mãi gần đây tôi mới liên lạc được với Lợi, thỉnh thoảng gọi điện hỏi thăm về cuộc sống của nhau. Cao Bằng- 1979 Ghi chép của Trọng Bảo Theo Báo điện tử Tầm nhìn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét