CAO BẰNG ĐẦU NĂM 1979 (kỳ 25) Cập
nhật lúc 09:31 Nhận được quyết định đi học tôi chuẩn bị lên đường. Đó là một ngày cuối tháng 6-1979. Hôm trước ngày tôi về xuôi anh em trong tiểu đội vô tuyến điện cố tìm cách tổ chức một bữa liên hoan chia tay nhưng không thành. Không thể kiếm nổi một chút thực phẩm gì khác ngoài mớ rau thập cẩm cùng mấy quả cà chua xanh hái lượm được ở ngoài đồng. Tiểu đội trưởng Vũ Văn Tự cứ băn khoăn mãi. Tôi bảo: "Đừng bận tâm chuyện liên hoan làm gì. Mình được về xuôi ôn thi đại học là sướng lắm rồi, anh em ở lại còn phải tiếp tục chịu đựng nhiều khó khăn, gian khổ, còn phải đối mặt với quân thù hằng ngày cơ mà?". Chúng tôi ngồi trò chuyện với nhau đến khuya. Anh em trong tiểu đội vô tuyến điện của tôi khi chiến tranh xảy ra đã có mặt ở các hướng vô cùng ác liệt như chốt cây đa của Đại đội 11, chốt "tọa-độ-lửa" trước cửa ngõ Sóc Giang của Đại đội 10 vậy mà vẫn trở về đủ cả. Đó là niềm vui lớn nhất của tôi trước khi về xuôi. Chính trị viên Hoàng Quốc Doanh thứ 3 hàng sau (từ trái sang) và cán bộ tiểu đoàn 3 dự lễ mừng công sau chiến tranh Đêm ấy, tôi thao thức mãi không sao ngủ được. Tôi nhớ đến những ngày chiến tranh ác liệt, gian khổ, nghĩ đến những vui buồn trong thời gian ở biên giới. Vậy là từ lúc chúng tôi hành quân lên chiếm lĩnh trận địa nơi tuyến trước đến khi rời biên cương về xuôi vừa đúng tròn một năm. Một năm đáng nhớ nhất trong cuộc đời quân ngũ với những vui buồn day dứt khôn nguôi. Buổi sáng hôm sau, tôi chào tạm biệt anh em trong trung đội thông tin để lên đường. Mọi người lưu luyến tiễn tôi ra tận con đường nhỏ trước cửa bưu điện thị trấn cũ. Tôi đi qua cái thị trấn đổ nát còn hằn sâu vết dấu của cuộc chiến tranh tàn khốc. Tôi cảm thấy bàn chân mình như vẫn còn đang dẫm trên đất bỏng. Lúc qua chỗ bụi tre dưới chân điểm chốt Đại đội 10, nơi trung úy Trần Xuân Tương và hạ sĩ Nguyễn Công Tâm hy sinh tôi dừng lại một lát. Chợt nghe thoảng trong gió vẫn như có tiếng thằng Tâm đang gọi và vui mừng khoe với tôi: “Bảo ơi! Tao có con trai rồi!”... Đến đầu bản Kép Ké tôi quay đầu lại nhìn thị trấn Sóc Giang lần cuối. Biết đến bao giờ mới lại có điều kiện quay trở lại mảnh đất thân yêu nơi biên giới xa xôi này. Tôi nhìn lên trận địa của Đại đội 10, điểm cao 505, ngọn núi có hang huyện ủy và xa xanh phía sau là dãy núi có Lũng Mật, Lũng Vài, Lũng Vỉ... Toàn những nơi mà tôi đã có những kỉ niệm không quên. Bất giác, tôi đứng nghiêm đưa tay phải lên vành mũ. Tôi muốn chào thị trấn Sóc Giang anh hùng, chào các đồng đội của tôi còn ở lại ngày đêm trấn giữ nơi biên cương và chào từ biệt những người đang nằm dưới cỏ ở nơi biên ải này… Tôi xốc lại chiếc ba lô trên vai tiếp tục con đường hành quân về xuôi. Trong chiếc ba lô nhẹ tênh chỉ có một bộ quần áo cũ, một chiếc bi-đông và cuốn nhật ký là kỷ vật của chiến trường. Cái võng, cái tăng và các loại quân trang dùng chung khác tôi đã giao nộp lại đầy đủ cho quân nhu tiểu đoàn. Trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi rất muốn xin quân nhu tiểu đoàn cho tôi cái võng vải bạt cũ làm kỷ niệm nhưng không được, vì nó là quân trang dùng chung ghi trong danh mục vật tư trang bị biên chế của đơn vị. Cái võng ấy đã theo tôi suốt những ngày lang thang thất lạc trên triền núi đá cao. Nó là chăn đắp khi giá rét, là chiếu trải khi nằm trong hốc đá ẩm ướt, là cái cáng thương binh khi hành quân. Cái võng lấm lem bụi đất thấm máu đồng đội ấy thuộc loại quân trang dùng chung nên vẫn phải bàn giao lại. Nhớ lúc chia tay, trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi cứ nắm tay tôi mãi và hẹn ngày gặp lại. Vậy mà tôi đã không gặp lại được anh. (Phạm Hoa Mùi quê ở Yên Sơn, Tuyên Quang. Từ khi chia tay nhau ở Sóc Giang ngày ấy tôi không biết gì về anh nữa. Đến khoảng giữa năm 2015 thì tôi nghe tin Phạm Hoa Mùi đã mất vì mắc căn bệnh hiểm nghèo). Tôi khoác ba lô cuốc bộ xuôi hướng ngã ba Đôn Chương. Dọc đường tôi gặp những đoàn chiến sĩ mới từ phía sau đang hành quân lên biên giới. Nhìn những khuôn mặt trẻ măng đang hăm hở đi lên tuyến trước tôi chợt thấy trong lòng dâng lên một nỗi buồn xa vắng. Bao giờ đất nước mình hết chiến chinh để những chàng trai trẻ tràn đầy sức sống thế kia không còn phải cầm cây súng trận nữa. Những người con của bao bà mẹ trên khắp đất này sẽ không còn phải ngã xuống nữa. Tôi chợt thấy lạnh người khi nghĩ cả đoàn quân trai tráng, ồn ào kia nếu chiến tranh lại xảy ra thì chỉ sau vài trận nhiều người sẽ chỉ còn là những nấm mồ nhỏ bé lẫn vào cỏ cây sương gió nơi biên ải. Giá như đất nước mình hoà bình thì những chàng trai này sẽ là những sinh viên, những công nhân, trí thức trên công trường, nhà máy thì hay quá. Đất nước hoà bình sẽ phát triển, không phải nghèo, phải khổ mãi. Hôm qua bưng bát lên thấy cơm của người lính tuyến trước đã phải độn nhiều ngô sắn hơn rồi. Chiến tranh sẽ bòn rút hết tài nguyên, tiềm lực, làm xói mòn kiệt quệ kinh tế của đất nước, sẽ quàng cái ách nghèo đói lâu dài lên đầu lên cổ nhân dân. Đến lối rẽ vào Pác Bó thì tôi đi nhờ được một chiếc xe vận tải chở vật liệu xây dựng lên biên giới cho bộ đội làm công sự đang quay về xuôi. Về gần Nà Giàng nơi trung đoàn bộ đóng quân tôi ghé một nhà dân ven đường nấu cơm nhờ. Buổi chiều tôi mới phải có mặt tại trung đoàn bộ. Chị chủ nhà nhìn tôi hỏi: - Chú là lính cũ à? - Vâng đúng thế ạ! - Thảo nào nhìn mặt mũi hốc hác nhưng nhanh nhẹn lắm! - Thế ạ? - Thì chỉ có lính cũ nên chú mới thông thạo việc nấu nướng thế chứ! Chị cho tôi một ít mỡ lợn, quả đu đủ xanh và nắm rau cải mới nhổ trên nương để làm thức ăn. Nấu cơm ăn xong tôi vào trung đoàn bộ thì đã đến giờ làm việc buổi chiều. Trong số các chiến sĩ về xuôi có nhiều người được cử đi đào tạo tại các trường sĩ quan. Tôi và mấy anh em nữa nhận quyết định về trường văn hoá của quân khu. Chúng tôi sẽ ôn tập để thi vào các trường đại học. Nghĩ đến lúc được ra quân trở thành một sinh viên tôi lại thấy nao nao trong lòng. Khi còn đi học phổ thông tôi vẫn luôn ước mơ thi vào khoa văn của trường đại học tổng hợp Hà Nội. Nhưng sau cuộc chiến tranh biên giới này tôi lại muốn thi vào trường đại học nông nghiệp. Tôi muốn trở thành một kỹ sư trồng lúa. Tôi nghĩ đến đồng bào nơi biên giới thiếu đói quanh năm mà khi chiến tranh xảy ra vẫn giành từng bát gạo gạo, bắp ngô tiếp tế cho bộ đội. Tôi nhớ đến cái đói run người trong những lần leo dốc hành quân. Cái đói khiến bao người lính gục ngã nơi chân dốc núi trong những trận đánh không cân sức. Cái đói, cái khát đã giết chết mấy chục cán bộ, chiến sĩ trong hang sâu khi họ bị bọn giặc bành trướng đánh sập cửa hang. Tôi chợt nhớ đến Nguyễn Văn Đam, một người bạn thân thiết cùng quê luôn luôn ôm giấc mơ học hành mà nay đã trở thành mây khói ở nơi biên ải này. Đoàn chúng tôi hành quân về sư đoàn bộ lúc này đang ở Bế Triều, Hòa An. Sau khi hoàn thiện các loại thủ tục giấy tờ chúng tôi tiếp tục cuốc bộ ra thị xã Cao Bằng tìm cách mua vé xe khách về Thái Nguyên. Ngày ấy đi lại thật khó khăn. Chúng tôi vạ vật cả ngày ở bến xe mà không mua được vé xuôi Thái Nguyên. Đang loanh quanh ở khu bến xe thì bất ngờ tôi gặp thiếu úy Trần Hữu Hoàn, đại đội phó Đại đội 11, Tiểu đoàn 3. Anh Hoàn rất mừng khi biết tôi được cử về xuôi ôn thi đại học. Anh đang đi tập huấn tại sư đoàn tranh thủ về thăm nhà. Anh Hoàn rủ tôi về nhà mình chơi. Nhà anh ở ngoài ven thị xã Cao Bằng. Gia đình anh gốc gác quê Thái Bình lên đây định cư đã lâu. Tôi theo anh Hoàn về nhà. Vừa đi chúng tôi vừa vui vẻ nói chuyện, nhắc lại những kỷ niệm trong chiến tranh. Tôi nhớ hôm rút lui lên Lũng Vỉ gặp bộ phận của Đại đội 11. Nhìn thấy đại đội phó Hoàn đầu quấn băng kín vẫn đi lại nhanh nhẹn bình thường, tôi hỏi: - Anh bị thương nặng không mà băng bó kín cả đầu trông ghê chết như thế? Anh Hoàn bảo: - Nặng quái gì đâu! Sướt da vớ vẩn ấy mà! - Sao vậy? - Tao đang chỉ huy chiến đấu ở chốt cây đa thứ nhất thì thấy bỏng rát bên má trái, máu chảy ròng ròng. Sờ tay lên thấy bay đâu mất mẹ nó một mẩu tai phải rồi. Mẹ kiếp, thằng giặc chỉ cần nhích mũi súng sang bên trái vài li thì viên đạn cắm thẳng vào giữa mặt tao rồi. Mấy thằng thấy mặt mũi tao be bét máu nên băng bó ngang dọc thế này chứ tao có bị gì nặng đâu. Tôi bảo: - Anh đừng chủ quan. Nó mà nhiễm trùng thì khốn… - Đúng… đúng… nhưng nguy quá rồi mày ơi! - Sao thế? - Thì… sau trận này vác cái tai cụt về khéo người yêu tao nó bỏ chạy luôn một mạch mất mày ạ! Tôi bảo anh: - Không việc gì đâu anh ạ! Sau chiến tranh vào bệnh viện họ lắp cho một cái tai giả. Tai vẫn vẫy được, vẫn đẹp trai như thường… - Mày chỉ được cái khéo động viên! Anh Hoàn vốn là một lính chiến ở mặt trận Tây Nam. Thành tích chiến đấu của anh khá dày dặn. Anh là một người chỉ huy gan lỳ. Hầu như suốt thời gian Đại đội 11 chống chọi với các đợt tấn công ác liệt của địch, anh luôn luôn có mặt ở chốt cây đa thứ nhất chỉ huy bộ đội và trực tiếp bẻ gãy các đợt tấn công liên tiếp của chúng. Trong khi đó thì đại đội trưởng Tuân chui trong hang đá để tránh pháo rồi chỉ huy bằng điện thoại và qua liên lạc truyền đạt. Mệnh lệnh lúc tới được các trung đội, lúc thì không và chả đúng tý gì với tình huống chiến sự đang diễn ra. Đại đội 11 nếu không có một người chỉ huy như anh Hoàn thì bị mất trận địa ngay từ ngày đầu tiên khi bọn Trung Quốc tràn sang đông như kiến cỏ. Bà mẹ anh Hoàn rất vui khi thấy hai chúng tôi về. Bà vội vã làm cơm. Suốt bữa bà cứ ngồi nhìn hai chúng tôi ăn. Cuộc chiến tranh vừa qua thật là khủng khiếp đối với một người như bà. Bà phải chạy vào trong rừng rồi về tận Bắc Kạn mà lòng như lửa đốt lo lắng cho con ở tuyến trước. Ăn cơm xong trời đã sẩm tối, tôi chào bà mẹ và anh Hoàn để ra bến xe. Chúng tôi sẽ chia nhau bám trụ ở bến xếp hàng cả đêm để chờ mua vé xe khách và ra đường quốc lộ xem có cái xe tải quân sự nào chạy về xuôi để đi nhờ. Kể từ lần ấy đã bốn mươi năm rồi tôi không gặp lại anh Hoàn lần nào nữa. Đầu năm 2019, đọc báo tôi mới biết anh là thiếu tướng, nguyên phó tham mưu trưởng Quân khu 1 đã nghỉ hưu. Về đến Trường Văn hóa Quân khu 1 tôi được biên chế về Đại đội 4 chuyên ôn luyện để thi vào đại học. Tại đây tôi gặp nhiều anh em ở các đơn vị chiến đấu cũng về đây học tập. Ở trường văn hóa có nhiều thầy dạy rất giỏi, có kinh nghiệm bồi dưỡng thi đại học. Tôi hi vọng mình sẽ thi đỗ vào đại học nông nghiệp như mong muốn. Nhưng rồi cuộc đời người lính không định trước. Chuẩn bị đến kỳ thi đại học thì tôi lại được cử về học tập tại Trường sĩ quan Chính trị tại Bắc Ninh. Thời gian sau Nguyễn Xuân Hòa, nhân viên thống kê chính trị và Cao Thành Văn, trợ lý quân khí Tiểu đoàn 3 cũng từ Cao Bằng về học tập tại trường. Mỗi lần gặp nhau chúng tôi đều ôn lại những ngày chiến đấu gian khổ ở biên cương phía Bắc tháng 2-1979... Cao Bằng- 1979 Ghi chép của Trọng Bảo Theo Báo điện tử Tầm nhìn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét