Thứ Tư, 3 tháng 3, 2021

Lịch sử

 

CAO BẰNG ĐẦU NĂM 1979

(kỳ 17)

 Cập nhật lúc 13:25 

 

Tù binh Trung Quốc

Tình hình trên Lũng Vỉ, Lũng Vài ngày càng khó khăn do lượng người tăng lên. Một số cán bộ, chiến sĩ các đơn vị của trung đoàn cũng rút lui lên khu vực của Tiểu đoàn 3. Vấn đề lương thực và nước uống rất nan giải. Có những vị trí đảm bảo phòng ngự rất tốt nhưng do không có nước uống chúng tôi lại phải rời đi. Các bộ phận ban ngày thì ém quân ẩn nấp trong các hang hốc, khe đá để tránh bị địch phát hiện, ban đêm thì cơ động xuống bản, xuống suối để tìm lương thực và nước uống. Bọn xâm lược tràn ngập khắp nơi nên việc xuống núi phải rất thận trọng.

Một buổi sáng, cơ quan tiểu đoàn bộ tổ chức lực lượng từ Lũng Vỉ qua Lũng Mật để lấy nước và lương thực. Chúng tôi hành quân sang Lũng Mật từ hơn ba giờ sáng. Lũng Mật có một bản người Dao với độ chục nóc nhà. Trong bản có một cái bể xây bằng xi măng rất to để chứa nước mưa dùng cho cả bản. Đến Lũng Mật thì trời đã sáng hẳn. Tôi lấy đầy một bi-đông nước, nhận một ít gạo trong kho dự trữ của Đại đội 12, bà con dân bản cho mấy bắp ngô. Khi chúng tôi đang chuẩn bị quay trở về thì bị bọn địch tập kích bất ngờ. Sương mù trên núi chưa tan hẳn thì tiếng súng đã nổ chát chúa khắp Lũng Mật. Đó là tiếng súng 12ly7 và tiếng đạn cối 60. Cả thung lũng mù mịt lửa khói. Tiếng kêu hoảng loạn của nhiều người dân trong bản vang lên. Chúng tôi vội vớ lấy súng đạn nhưng chưa biết quân địch ở phía nào mà bắn. Mọi người phải nằm ép người vào các mô đá, khe hốc núi để tránh đạn.

Khi xác định được hướng bắn của bọn địch chúng tôi càng lo lắng, sợ hãi. Bọn địch đã vác được súng 12ly7, đại liên và cối 60 lên một mỏm núi cheo leo dốc đứng ở phía đầu Lũng Mật. Từ đây chúng có thể khống chế toàn bộ thung lũng. Bọn này chắc chắn phải là lực lượng đặc nhiệm tinh nhuệ của quân địch. Chúng chính là bọn lính sơn cước. Bọn này leo vách núi rất giỏi giống như một lũ tắc kè, kỳ nhông sống hoang dã trên núi.

Chúng tôi lợi dụng các các mô đá, khe núi để ẩn nấp và chống trả quân địch. Nhưng có nhiều người nấp sau mô đá vẫn bị trúng đạn của bọn địch đang ở trên cao. Những viên đạn bắn tỉa của chúng xỉa xuống khá chính xác. Cầm cự đến khoảng gần chín giờ sáng bộ phận chúng tôi được lệnh nhanh chóng cơ động vượt qua đoạn dốc giống như sợi dây diều căng trên sườn núi để rút sang hướng Lũng Vài, Lũng Vỉ. Đoạn đường phải vượt qua rất dốc và trống trải. Nếu không khống chế được hoả lực địch trên mỏm núi ở phía đầu Lũng Mật thì đội hình chúng tôi leo lên con dốc lưng chừng núi sẽ làm những tấm bia sống cho bọn giặc thử súng.

Khi Đại đội 12 tổ chức được hỏa lực 12ly7 bắn trả, khống chế quân địch thì chúng tôi mới bắt đầu vượt qua con dốc dây diều để quay trở về Lũng Vỉ. Chúng tôi chạy gằn trên đoạn dốc trống trải, vừa chạy vừa tránh đạn địch. Đó đúng là một cuộc chạy đua với thần chết thực sự. Cứ chạy một đoạn chúng tôi lại phải nằm sấp xuống mặt đường tránh đạn. Đạn địch vẫn bắn xối xả, khói bụi mù mịt, lá cây rừng ven con đường mòn rụng xuống tơi tả. Có những người bị trúng đạn chới với ngã gục xuống mặt đường hoặc lăn nhào xuống sườn núi.

Tôi đeo ba lô gạo, xách súng chạy ngược lên dốc. Linh tính hay là sự may mắn đã giúp tôi thoát khỏi những loạt đạn bắn đuổi của bọn địch. Cứ chạy được một đoạn tôi lại nhao người lên rồi nằm úp mặt xuống đường. Mấy lần khi tôi vừa đổ người nằm ép xuống mặt đường thì đạn địch lại bắn chiu chíu ngay sát trên lưng, đất đá, lá cây bên phía trên vách núi rơi xuống lả tả. Thật may, lần nào tôi cũng thoát cả. Nguyễn Xuân Hòa, nhân viên thống kê chính trị tiểu đoàn chạy ngay phía trước tôi. Hai thằng vừa chạy vừa nằm, vừa bò ngược lên đỉnh dốc. Thằng Hòa lao đã lên nấp được sau một mô đá to khá an toàn trên đầu dốc núi.

Nhìn xuống dốc, thấy tôi lúc chạy gằn, lúc nằm bẹp xuống mặt đường để tránh đạn thằng Hòa bèn gọi to:

- Bảo ơi! Cứ bình tĩnh mà chạy lên đây nhé. Tao sẽ yểm hộ cho…

Nó cầm khẩu M79 giơ giơ lên để động viên tôi. Nghe tiếng thằng Hòa gọi, tôi vừa ngước lên nhìn thì bỗng "oành" một tiếng. Quả đạn cối 60 nổ trên vách núi ngay trên đầu dốc ở gần chỗ thằng Hòa đang ẩn nấp. Mảnh đá vụn văng rào rào, khói bụi mù mịt, lá cây bay tả tơi. Tôi hốt hoảng nghĩ: “Thôi chết! Không khéo thằng này tan tành thành từng mảnh mất rồi!”. Tình hình thế này phải vượt được sang phía bên kia dốc núi càng nhanh càng tốt. Lợi dụng khi đạn địch vừa ngớt, tôi nhỏm ngay dậy bật người lao lên. Khi tôi chưa kịp đổ người nằm xuống thì một quả cối 60 và một loạt đạn địch bắn trùm lên cả đoạn đường. Tôi đạp vào một hòn đá bị trượt chân ngã nhào vào phía vách núi. Tôi cố gượng lật người nằm úp xuống mặt đường, cố gắng thu thân hình nhỏ nhất để tránh đạn bắn tỉa của bọn địch. Chợt thấy bụng mình ướt sũng tôi hoảng quá nghĩ: "Thôi chết! Mình bị thương rồi! Máu chảy nhiều quá. Nhưng tại sao lại không thấy đau và bị choáng nhỉ?". Tôi vội thò tay xuống bụng rồi đưa lên nhìn. Bàn tay tôi đỏ quạch. Nhưng đó không phải máu mà là màu đất đỏ trên mặt đường. Hóa ra một viên đạn địch đã bắn trúng làm thủng cái bi-đông để trong túi cóc ba lô, nước chảy ra ướt sũng quần áo khiến tôi hốt hoảng tưởng là máu.

Lúc vượt lên tới đỉnh dốc, lăn được sang phía bên kia sườn núi, khuất hẳn tầm bắn của bọn địch tôi nằm thở dốc và nghỉ một lát để định tâm lại. Đoạn, tôi xốc lại ba lô xách súng lần theo lối mòn về Lũng Vỉ. Vừa đi được vài bước thì tôi gặp thằng Hòa. Nó đang ôm khẩu súng ngồi thu lu trong một hốc đá ngay sát bên lối đi. Thấy nó không bị sây sát gì tôi mừng lắm. Nó cũng rất mừng khi tôi chạy thoát lên được dốc núi an toàn. Tôi bảo nó:

- Chờ mày yểm hộ thì tao đã toi mạng từ tám hoánh nào rồi?

Nó cười hề hề tuy mặt thì vẫn còn tái đi:

- Nói thế để cho mày yên tâm thôi. Khẩu M79 của tao chỉ còn mỗi một viên đạn thì yểm hộ cái cóc khô gì được nữa chứ?

Tôi ngồi phịch xuống bên cạnh nó. Tôi vừa thở dốc vì mệt vừa nói:

- Thảo nào nó mới choang cho một quả cối, cách xa đến cả trăm mét mà mày đã chuồn nhanh thế?

Thằng Hòa bảo:

- Hì… Suýt nữa thì tao tan xác vì quả cối ấy đấy! Mà này, mày đói chưa?

Tôi nhăn mặt:

- Đang đói run cả người lên đây! Từ tối hôm qua đến giờ đã kiếm được cái gì cho vào bụng đâu?

Thằng Hòa lục cóc ba lô lôi ra nửa con gà luộc. Nó xé đưa cho tôi cái đùi gà và bảo:

- Mày ăn đi cho đỡ đói. Bà con trong bản Lũng Mật cho đấy!

Hai thằng vừa lau mặt vừa ăn. Thịt gà ăn vã, không muối, nhạt bã ra trong miệng. Giá mà bây giờ có mấy hạt muối thì tốt quá. Một số anh em khác cũng đã vượt qua được đỉnh dốc an toàn. Chúng tôi đeo ba lô lương thực theo đường mòn về Lũng Vỉ. Có ít gạo dùng để nấu cháo giành cho thương binh. Ngô và đậu tương bà con Lũng Mật cho chúng tôi làm thành “lương khô” cho một cuộc chiến đấu lâu dài. Ở vùng cao khi thu hoạch mùa màng bà con dân tộc thường cắt cả bông lúa, cắt cả cây đậu tương, bẻ ngô lấy cả bẹ rồi bó lại thành từng bó treo lên gian bếp cho khô. Khi nào sử dụng mới đưa bó lúa xuống vò tuốt lấy thóc rồi giã và sàng sảy thành gạo. Vì thế nên khi bà con cho lúa chúng tôi không lấy, chỉ nhận ngô và đậu tương, vì giữa rừng không thể nào biến bó lúa thành gạo được. Ngô và đậu tương chúng tôi tẽ, bóc lấy hạt rồi rang lên chia nhau cho vào cóc ba lô, túi áo, túi quần ăn dần. Cánh lính chúng tôi gọi đó là “lương khô” thời đánh Tàu để phân biệt với các loại lương khô 701, 702 thời đánh Mỹ. Loại “lương khô” tự chế này ăn vào khát nước lắm.

Tôi nhớ mãi lần đi lấy lương thực ở Lũng Mật ấy. Sau này, khi cùng về học tại Trường sĩ quan Chính trị, mỗi lần gặp nhau tôi và Nguyễn Xuân Hòa vẫn hay nhắc lại kỷ niệm của lần suýt chết ở Lũng Mật buổi sáng hôm ấy và càng xót thương cho biết bao người đồng đội cùng nhau lên biên cương nhưng đã không có ngày trở về như chúng tôi...

Tôi cũng không bao giờ quên bản Lũng Mật với những người dân thật thà, chất phác, hết lòng thương yêu bộ đội. Vậy mà đến nay sau bao nhiêu năm chiến tranh đã qua rồi người dân ở đây vẫn còn chịu cảnh nghèo khó. Tôi thấy buồn khi đọc được đoạn này của Báo Pháp luật Việt Nam viết về Lũng Mật cách đây không lâu: “Tách biệt với dòng chảy hội nhập, bà con người Dao ở bản Lũng Mật, xã Sóc Hà, huyện Hà Quảng (Cao Bằng) hiện vẫn sống trong cảnh cơ cực trên các sườn, đỉnh núi Lũng Mật, đường đi lại vô cùng khó khăn, thiếu nước sinh hoạt và sản xuất trầm trọng. Nhìn từ trung tâm xã, con đường đi lên Lũng Mật như một sợi chỉ uốn lượn quanh những ngọn núi. Do đường đi khó khăn nên phải mất 2 tiếng đồng hồ mới lên đến bản Lũng Mật. Thấp thoáng sau những vạt chuối là các nóc nhà bốn mái của đồng bào người Dao.

Những khó khăn ấy đang “níu giữ” cái đói nghèo, bởi vậy cuộc sống của người dân luôn bị cái nghèo bủa vây khiến họ không dám mơ ước đến những điều tưởng chừng như rất đỗi giản dị... Điều khiến khách xa đến Lũng Mật cảm thấy ngạc nhiên và xúc động nhất là khi bắt gặp Trường tiểu học Lũng Mật nằm chênh vênh trên đỉnh núi cao quanh năm mây phủ. Trường có một dãy nhà tạm gồm ba phòng học. Diện tích các phòng học chỉ rộng khoảng 10m2, vách thưng ván gỗ, mái lợp proximăng, nhiều chỗ tường vách đã quá cũ nên các thầy cô giáo phải che bạt lên mái và xung quanh để tránh nắng mưa, chắn gió cho học sinh học tập. Vì đơn giản, thô sơ nên có thể nghe rõ tiếng dạy học của lớp bên cạnh khi đang ngồi học.

Hiện nay cả phân trường có 3 giáo viên dạy lớp ghép. Trường có 15 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 nhưng khuyết lớp 4 do không có học sinh. Trường học chưa có điện nên các lớp học đều phải tận dụng ánh sáng tự nhiên. Các lớp học ở đây thiếu thốn đủ bề về cơ sở vật chất, đồ chơi, thiết bị dạy học…”.

Lũng Mật ơi! Bao năm rồi vẫn thế, sao mà thương nhớ quá...

Cao Bằng- 1979

Ghi chép của Trọng Bảo

Theo Báo điện tử Tầm nhìn

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét