Chuyện giáo sư ở Đức
Cập nhật lúc 08:43
Ở Đức, giáo sư (GS) không phải là một
nghề có thể học được. Ứng viên phải đi qua con đường dài gập ghềnh, đầy gian
khó, lao động nghiêm túc, có lòng kiên nhẫn cao độ và thành tích nổi trội.
Ở đất nước này,
GS thường là công chức hay viên chức. Ngạch viên chức dành cho các vị GS công
tác tại các trường đại học (ĐH) tư hoặc những vị làm ở trường ĐH công lập
nhưng còn thiếu điều kiện trở thành công chức. Hầu hết "ghế GS" tại
Đức đều do các nhà KH là GS công chức "ngồi", có biên chế lâu dài.
Một số GS chỉ là GS viên chức.
Có GS mới phong
phải trải qua thời gian thử thách. Chức danh GS ở Đức không phải là điều kiện
mặc nhiên để có công việc mãi mãi tại trường ĐH. Việc trả lương tuy đã có
barem (ngạch C hoặc W) nhưng lương GS cao hay thấp bao nhiêu còn tuỳ thuộc
từng tiểu bang.
Quy trình cơ bản để bổ nhiệm GS tại Đức
Điều kiện tiên
quyết là, ứng viên phải tốt nghiệp ĐH. Người ta phân biệt GS làm việc ở hai
hệ đào tạo cấp này. Khi còn làm trợ lý khoa học (nghiên cứu và giảng dạy tại
một trường ĐH ở Đức), tác giả đã có dịp được dự thính buổi giảng bài thử của
ứng viên.
Viết hai luận văn ở hai cấp độ
Bước đầu tiên
dẫn tới “ghế GS" còn khá xa là công trình nghiên cứu KH với đề tài tự
chọn, tự triển khai. Khi hoàn thành công việc, nghiên cứu viên nộp cho Hội
đồng khoa học của trường một quyển luận văn chất lượng tốt. Phải có ít nhất
một điểm mới hoặc lý tưởng là, kết quả nghiên cứu mang tính đột phá. Chỉ có
như vậy nghiên cứu viên mới được phép bảo vệ luận văn. Nếu đề tài nghiên cứu
chỉ ở tầm thấp hay người nghiên cứu chỉ viết lại những điều thế giới đã biết
thì quyển luận án có dày bao nhiêu trang cũng không thể trở thành một luận án
phó tiến sĩ (PTS)/ tiến sĩ (TS).
GS hướng dẫn
biết rõ luận án có xứng tầm được bảo vệ hay không.
Tấm bằng PTS là
một minh chứng xác tín cho năng lực tư duy, khả năng lao động khoa học độc
lập của ứng viên.
Sau khi trở
thành PTS, ứng viên đã có cơ hội trở thành GS trẻ mà chưa có học vị TS.
Từ nhu cầu công việc chọn người
Nhà trường công bố công khai, minh bạch
"ghế GS" trống trên các phương tiện thông tin, kể cả nhật báo, tìm
người có khả năng thích ứng chiếm lĩnh ghế
đó.
Bài giảng thay vì cuộc phỏng vấn cá nhân
Các ứng viên
phải giảng bài thử trước hội đồng khoa học cuả trường. Tiếp theo, ứng viên
trả lời các câu hỏi chuyên môn.
Khi hội đồng tìm được người thích hợp
nhất cho chỗ
trống nói trên, ứng viên nhận được chức danh GS
do trường hoặc do chính phủ phong, tuỳ theo chế độ biên chế. Sau khi trao
bằng, ứng viên được quyền xưng tụng là GS.
Giáo sư tại các trường ĐH không được cấp học vị PTS/TS
CHLB Đức có hai
hệ thống trường ĐH: Một hệ bao gồm các trường, viện có quyền cấp học vị
PTS/TS theo luật định.
Hệ thứ hai
(viết tắt FH). Đặc điểm nổi bật cuả hệ này: Các trường hay học viện không
được đào tạo TS/PTS. Các công ty cuả Đức ưa tuyển dụng hàng ngũ kỹ sư, cử
nhân "ra lò“ từ hệ này vì họ có nhiều kỹ năng thực tế, lương trả thấp
hơn lương kỹ sư, cử nhân tốt nghiệp hệ kia.
Trường hợp
ngoại lệ: Nếu kỹ sư hay cử nhân tốt nghiệp hệ FH có thành tích khoa học rất
xuất sắc thì cũng có cơ hội được trở thành PTS/TS. Họ nộp bài và bảo vệ ở
trường có hội đồng bảo vệ. Có vị GS được phong vượt cấp, là GS - kỹ sư
chứ không phải GS - TS.
Chỉ có thể trở
thành GS, làm việc tại các chuyên ngành cuả trường FH mà ứng viên không có
học vị PTS/TS, nếu các chuyên ngành đó không đào tạo PTS/TS, như kiến trúc,
nghệ thuật và thiết kế. Các giải thưởng lớn về chuyên môn, những lần trưng
bày thành công rất lớn cuả ứng viên có thể coi là thành tích để thay thế các
công trình khoa học cho họ.
Hàng ngũ đông đảo, thành phần đa dạng
Năm 2016, CHLB
Đức có 35.880 nam GS chính nghề (77%) và 10.965 nữ GS chính nghề (23%) nghiên
cứu và/hoặc giảng dạy tại 428 trường ĐH công lập, ĐH tư hay học viện được nhà
nước công nhận.
Ngoài ra còn có
3.399 giảng viên tư và trợ lý khoa học, 182.129 cộng tác viên khoa học và
nghệ thuật, 10.035 cán bộ giảng dạy chuyên ngành đặc thù, 1.825 GS khách và
GS hưu trí, 99.097 người có nhiệm vụ giảng dạy và 43.432 người trong lực
lượng khoa học phụ trợ. Dưới 10 % các nhà khoa học này là GS và chỉ có 7,8%
làm việc với biên chế dài hạn cũng như có thời gian biểu rõ ràng. Hàng ngũ GS
ở Đức không có PGS (associate professor).
Lực lượng GS nước này gồm nhiều thành
phần. Việc phong chức danh khá
mởđể tận dụng hết nguồn lực:
GS ĐH tổng hợp (Univ.-Prof.) là chức
danh công vụ đối với giáo viên ĐH dùng trong các trường ĐH tổng hợp ở các
tiểu bang cuả Đức. Tại Bayern (Bavaria), theo luật định, hầu hết các vị GS có ghế giảng dạy đều
có ngân sách hằng năm khá lớn để phân bổ cho cán bộ khoa học là nhân viên
thuộc cấp cuả họ.
GS ngoại lệ (apl. Prof.), người
Việt Nam quen khái niệm GS ngoại ngạch, là chức danh phong cho các vị TSKH có
thành tích rất xuất sắc. Theo đúng ý nghĩa về ngôn từ thì "nội
ngạch" là "trong kế hoạch", "ngoại ngạch" nghĩa là
"ngoài kế hoạch". Việc phong này tuân thủ luật lệ riêng cuả từng
trường ĐH. Nhà nước không can dự, thí dụ không cấp chức danh công vụ và không
phải tạo việc làm cho họ.
Chi tiết này cho thấy mức độ tự quản và tự do độc lập
trong học thuật của các trường ĐH Đức cao ra
sao.
Một vài tiểu
bang không phong chức danh GS ngoại ngạch cho các ứng viên, nếu nghề chính
cuả họ đang là nghiên cứu và giảng dạy tại trường ĐH thuộc tiểu bang đó. Tại
các tiểu bang khác thì trái lại, các vị TSKH mới nhận chức danh công vụ là GS
công chức hay GS viên chức trong biên chế thì thường được phong hàm GS ngoại
ngạch.
Không phải ở
tiểu bang nào họ cũng có quyền xưng tụng là GS mà tự tiện bỏ đi các danh xưng
kèm theo. GS không kèm thêm danh xưng là chức danh GS của các trường ĐH đẳng
cấp khác nhau, chẳng hạn ĐH tổng hợp, ĐH hệ FH, ĐH nghệ thuật, ĐH âm nhạc hay
các học viện. Danh xưng kèm theo chỉ liên quan đến thang lương.
GS từ giảng viên tư (PD) là các vị
TS đã kí hợp đồng nghiên cứu và giảng dạy độc lập với một trường ĐH. Việc
phong GS cho hàng ngũ này phải có sự đồng thuận cuả bộ phụ trách.
Ở một số khoa cuả một số trường ĐH, công việc phong GS
không phải tuân thủ theo khoảng thời gian (mùa) nhất định mà theo thời gian
ứng viên hoàn thành nhiệm vụ, đáp ứng các tiêu chuẩn, trong đó có số bài báo
giá trị cao đã công bố, ứng viên đã hoàn thành luận án TSKH.
GS từ giảng
viên tư thường là ứng viên ngành y. Các bác sĩ chuyên khoa cao cấp là GS
thường dễ dàng trở thành bác sĩ kiêm lãnh đạo và phó giám đốc bệnh viện, kiêm
cả công tác giảng dạy.
GS thiện nguyện được
phong để ứng viên có ghế
giảng dạy ĐH mà nguồn kinh phí cấp cho họ không
thuộc ngân sách của trường. Một phần hay toàn bộ nguồn tài trợ đến từ bên
ngoài. Các vị GS đó làm việc, giảng dạy với kinh phí do tổ chức thiện nguyện
chi, thí dụ nhà thờ, công đoàn hay các công ty. Năm 2016, nước Đức có 806 GS
thiện nguyện, trong đó 488 vị được ngành kinh tế và 318 vị được các cơ quan
thiện nguyện chu cấp kinh phí.
GS trợ lý (assistant Prof.) thuộc
hàng ngũ GS trẻ, nghiên cứu khoa học và giảng dạy với tính độc lập rất cao.
Do thay đổi đạo luật khung về cấp đại học vào năm 2002, hiện nay hợp đồng có
thời hạn 6 năm cuả họ đã được thay đổi. Họ là GS công chức hay viên chức
trong biên chế. Tuy vậy vấn đề này cũng thuộc quyền quyết của từng tiểu bang.
GS cao niên (senior Prof.) là chức danh
cuả các vị GS đã đến tuổi hưu nhưng chưa có ai thay thế trên một lĩnh vực
chuyên ngành. Các tiểu bang và từng trường đại học có luật điều hành riêng
cho hàng ngũ này.
Lớp GS cao niên
không có lương cố định mà hưởng mức thu nhập áp dụng cho nghề phụ, tuỳ theo
số giờ giảng bài. Họ có thể làm việc tại trường cũ song cũng có thể ký hợp
đồng làm việc với truờng khác hay công ty nào đó.
GS thù lao (Hon.-Prof.) là giảng
viên đại học theo dạng nghề
tay trái. Do có thành tích xuất chúng trên lĩnh vực
khoa học hay nghệ thuật ngoài phạm vi trường đại học mà họ được trường tuyển
mộ và phong chức. Họ được quyền xưng tụng là GS (Prof.) không kèm thêm danh
xưng. Về căn bản họ chỉ nhận thù lao chứ không có tên trong danh sách biên
chế, danh sách lương cuả trường. Sau khi thôi hợp tác, họ chỉ giữ lại danh
xưng GS với điều kiện đã được chuẩn y. Hàng ngũ này giúp tận dụng nguồn chất
xám cao cấp cuả các vị lãnh đạo trong kinh tế, chính trị, y tế …
GS thỉnh giảng (visiting Prof.) nguyên
nghĩa tiếng Đức là GS khách, bao gồm các vị GS làm việc tại một trường đại
học ngoài nước, hầu hết thông qua trao đổi, hợp tác khoa học hay dự án hợp
tác nghiên cứu khoa học. GS thỉnh giảng cũng có thể là người nhận "ghế
GS" có thời hạn ở trường khác. Có vị được trường khác giao nhiệm vụ
giảng dạy lâu dài.
GS đại diện là nhà khoa học
hay nghệ nhân được trường tuyển dụng với hợp đồng có thời hạn. Việc tiếp
nhận, phong chức cho họ không phụ thuộc vào quy trình "xin việc"
như thông lệ. Trong thời gian làm đại diện, tuỳ theo từng tiểu bang, cán bộ
khoa học hay nghệ nhân được quyền mang danh xưng GS nhưng không có quyền đòi
hỏi trường biên chế lâu dài (tương tự hợp đồng đã ký với người mang hàm GS
với ngạch lương W2/W3).
GS đại diện
phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của vị GS chính.
Nhà trường
thông báo công khai, khi cần phong, tuyển dụng nếu như có vị GS chính sắp về
hưu hoặc chuyển đi nơi khác. "Ghế GS" này được trao cho nhà khoa
học với bậc hàn lâm PTS, thường là cấp TS. Họ làm việc cho trường theo chế độ
GS viên chức.
GS danh dự (Prof. h.c.) là phẩm hàm phong cho bác học tầm cỡ quốc tế do có công lao to lớn thúc đẩy một chuyên ngành phát triển. Các vị này cung cấp kiến thức rất mới mẻ cho nghiên cứu khoa học.
Ngày nay một số
chính khách, nghệ nhân nhà nước, kể cả các nhà khoa học và nghệ nhân làm việc
độc lập, có công lao và thành tích đặc biệt lớn cũng được phong hàm này. GS
danh dự không có nghĩa vụ giảng dạy.
Theo luật cuả
Đức, học vị PTS/TS danh dự (Dr. h.c.) do trường ĐH cấp nhưng chức danh GS
danh dự cũng như GS nội ngạch lại thuộc Bộ văn hoá hay Bộ GD và đào tạo từng
tiểu bang phụ trách phong.
GS kiêm nhiệm vừa có chỗ làm việc tại
một trường ĐH vừa làm lãnh đạo ở một cơ sở bên ngoài. Họ nhận lương do cơ
quan bên ngoài trả và sau này lương hưu cuả họ do tiểu bang chi. Thời lượng
giảng bài của họ tại trường ĐH cũng ít đáng kể.
GS lãnh đạo
công sở nhà nước và giám đốc viện bảo tàng là những vị mang chức danh công vụ
"GS - Giám đốc", "GS - Chủ tịch“ hoặc "GS - Giám đốc viện
bảo tàng". Ngạch GS này thường trùng với ngạch GS kiêm nhiệm.
GS hưu trí - theo luật pháp
Đức quy định: Khi đến tuổi hưu (bắt đầu ở tuổi 63, muộn nhất tuổi 75), các GS
ngày nay phải nghỉ theo chế độ. Nếu có kiến thức uyên thâm và sức khoẻ còn
tốt thì trong khoảng độ tuổi kể trên, GS công vụ có quyền trở thành GS với danh
xưng viết tắt là em.Prof. Hàng ngũ này cuả Đức chỉ còn vài trường lẻ tẻ đã
được phong lần đầu trước 1975. Họ được thôi nghĩa vụ giảng dạy những vẫn có
thể giảng bài, đào tạo PTS/TS.. Lương trả cho họ cũng giảm đi một chút. Các
vị GS cao niên với danh xưng em.Prof. là những người góp công duy trì đẳng
cấp cho trường.
Đa số làm việc
theo biên chế tại học viện hay khoa cuả trường cũ, nơi họ từng công tác.
Tuỳ theo đẳng
cấp và quy định cuả pháp luật, nhiều giáo viên ĐH của Đức được mang phẩm hàm
GS trọn đời.
Vài lời kết
Đầu những năm 90 thế kỷ trước, nước Đức
đang trong quy trình thống nhất toàn diện, hệ thống giáo dục ĐH được nhất thể
hoá, kinh phí cấp cho vị trí "trợ lý khoa học" ở
trường ĐH, nơi tôi từng theo học và làm việc, đã vào tầm 35.000 Euro một năm,
được dùng để trả lương hằng tháng cho trợ lý, chi cho nghiên cứu, kể cả dụng
cụ thí nghiệm, mua văn phòng phẩm…
Ý nghĩa cuả
khái niệm "chức danh công vụ" ở Đức trùng với ý nghĩa khái niệm
"chức vụ" trong hệ thống hành chính công ở nước ta. Khái niệm GS
công chức, GS viên chức hay GS kiêm nhiệm chưa phổ biến ở Việt Nam.
Chức danh GS ở
Đức có nội hàm vinh dự cá nhân bởi vì GS là người có đạo đức thanh cao, khách
quan trong tư duy và hành xử.
Nếu vi phạm đạo
đức, dù mới chỉ mới mang học vị TS, nhưng người ta đã có thể mất chức vụ rất
cao đã được giao phó trong hệ thống hành chính công. Tại Đức có xảy ra hai
cuộc từ nhiệm điển hình của hai vị bộ trưởng liên bang vì dính đến đạo văn.
Dù là GS hay người thợ, tại Đức về đại
thể người ta nhìn nhận, đánh giá một con người thông qua nhân cách và tính
chuyên nghiệp cuả người đó chứ không nhìn vào bộ cánh hay "mặt tiền cuả toà
nhà". Dù mới chỉ mang học vị PTS/TS, người mang
đã được xã hội nể trọng, thể hiện qua ngôn từ xưng hô hàng ngày của người bản
địa trong công việc.
TS Nguyễn Văn Tiến - Ích(Văn phòng hỗ trợ tư pháp, hành chính công
và kinh tế, CHLB Đức)
Theo VietNamNet
|
Chủ Nhật, 11 tháng 3, 2018
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét