21:45
BÊN THẮNG CUỘC:
“THÂM CUNG BÍ SỬ”
HAY CÁI NHÌN TĂM TỐI CỦA HUY ĐỨC?
ĐÔNG LA- Hôm nay tôi sẽ kết lại loạt bài viết về cuốn Bên thắng cuộc bằng việc bàn về những chuyện thâm
cung bí sử mà Huy Đức đã viết. Nhưng trước hết, phải công bằng với Huy Đức,
chúng ta xem thử dư luận gần đây.
Về phía ca ngợi Huy Đức,
số lượng bài viết xem chừng áp đảo phía công kích. Nhưng trong lĩnh vực tri
thức phức tạp, số lượng không có ý nghĩa gì. Như khi Einstein đưa ra Thuyết
Tương đối, biết có danh sách 100 nhà bác học phản đối, ông đã cười mà rằng: “Nếu tôi sai thì 1 cũng đủ cần gì tới
100!”. Huống hồ số người ủng hộ Huy Đức hầu hết thuộc phe “thua cuộc”,
làm sao mà họ chả ủng hộ một người biện hộ cho họ? Ta thử xem ý kiến một vài
nhân vật có trình độ.
Alan Phan, một doanh
nhân tài danh và thành đạt, viết sau khi đọc Bên thắng cuộc: “Lần đầu
tiên trong lịch sử, một nghịch lý hiện diện sau 1975. Cuộc sống của 95% người
thua cuộc sau vài năm (phải lang bạt kỳ hồ khắp năm châu) lại sung túc về vật
chất gấp 10 lần 95% những người thắng cuộc… Trong khi phe thắng cuộc vẫn loay
hoay tìm lối ra trong cái đầm lầy họ tự đào” (gocnhinalan.com) Đọc
xong tôi bật cười thấy vị doanh nhân này cũng ngu ngơ y như Ngô Bảo Châu viết
về Hà Vũ vậy. Nếu “bên thua” các ông chạy sang một nước khác có thực
trạng y như VN, hoặc sang vùng Trung Đông hoặc Châu Phi chẳng hạn, mà các ông
cũng giàu được như vậy, thì hãy tự hào. Còn các ông thực chất chỉ là những kẻ
ăn theo tại những nước, khi mà dân ta còn là nô lệ và 2 triệu người chết đói,
thì người ta đã chế tạo được bom nguyên tử rồi. Các vị giàu có cũng tốt thôi
nhưng chỉ là tha phương cầu thực, vẫn có cái phần nhục trong đó, không nên tự
hào, kể cả chính bản thân tôi đây khi cũng có khá nhiều người thân bên Mỹ.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng,
Đại học George, khen Huy Đức “chuyên nghiệp và công bằng hiếm có” thì
“bên thua” cũng có những người phản bác. Tôn Nữ Hoàng Hoa trên tieng-dan-weekly.blogspot.com:
“GS Nguyễn Mạnh Hùng cho rằng tác giả Huy Đức rất công bằng khi viết cuốn
Bên Thắng Cuộc này. Chúng tôi xin trả lời ngay nếu nói tác giả Huy Đức có ý
công bằng là sai”. Bởi họ cho rằng Huy Đức muốn "hồi chánh thật
sự" thì phải dũng cảm còn kiểu bắt cá hai tay để cầu danh lợi như
Huy Đức là “Nếu không viết được những dòng trung thực thì phải viết những
dòng nịnh, bợ. Khi đã viết những dòng nịnh, bợ thì không còn chữ TRUNG mà chỉ
còn lại là một chữ HÈN”.
Lão Móc trên hennhausaigon trong bài Mặt thật Huy Đức viết:
“…Ở Mỹ, người Mỹ sẽ
hỏi Huy Đức là thằng nào? Ở Việt Nam khá nhiều
người … biết nó là … Trương Huy
San, biệt danh “San Hô”, do đồng nghiệp Tuổi Trẻ đặt cho một
cách khinh miệt”; “Kim Hạnh ném San Hô ra thị trường thông tin đạt kết quả
tốt… Huy Đức nhanh chóng tự biến thành “tên nhà báo làm tiền” … Nhìn chung, công trình xây dựng nào
cũng không ít thì nhiều cũng có vấn đề! Huy Đức tìm gặp để… tìm hiểu… Sau
những câu hỏi bắt mạch… thằng “San Hô” có trong tay một số căn chung cư,
villa… mua theo giá hữu nghị… San Hô chỉ cần kiếm thân chủ bán trao tay! “Chưa tới 10 năm làm báo, cứ nhìn
tài sản của thằng San Hô là đủ biết!”, Sỹ
H., phóng viên thể thao nói so sánh. Còn H.
Ngọc, chuyên mục nhà đất báo Sàigòn Tiếp Thị, kể rằng, “Nguyễn Phụng Thiều,
nguyên Gám đốc kinh doanh nhà Tân Bình, có lần cho biết “báo TT đưa tin trước nhất về công
trình chung cư Bàu Cát, Huy Đức là khách hàng đầu tiên”. Bài báo kết luận: “THS, HĐ,
San Hô, một thằng làm báo thiếu đạo đức nghề nghiệp,… lợi dụng sự tò mò
của những ai chưa biết, viết về những chuyện cũ kỷ hơn 30 năm để móc đô-la
của người Việt tại Mỹ, rõ ràng, có quá nhiều người đã trúng kế dân vận của
một tên “hăng rô” lưu manh chữ nghĩa”.
Đã có những “ông con
Việt Cộng” khen Huy Đức như Nguyễn Giang BBC (Anh), Trần Hữu Dũng (Mỹ)
thì “Việt cộng chiêu hồi” như Bùi Tín cũng khen: “Đây quả là một
công trình hiếm có, công phu, bởi vì anh có gan, có ý chí”. Về phần góp
ý, Bùi Tín viết: “Những thiếu sót gốc phải gia công hơn nữa, ví dụ
như là ‘cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước’ nói như thế có đúng hay không,
theo tôi là không đúng. Thế còn nói ‘ngày toàn thắng,’ ‘ngày giải phóng,’ thì
ngay cái tít ‘giải phóng’ cũng đã là mỉa mai rồi”.
Những kẻ chiêu hồi thì dù
chiêu hồi phe thắng, phe chính nghĩa cũng đã là nhục, nên trong Tam Quốc, phía Lưu Bị đã phải
mất bao công thuyết phục thì Hoàng Trung mới quy hàng. Còn Bùi Tín, nếu không
có nghề gì để kiếm sống thì nên đi hầu bàn hoặc làm gì đó, đã trốn chạy, trở
cờ mà lại còn đòi giảng giải đạo lý thì da mặt ông dầy thật! Nói đúng cũng đã
là khó nghe huống hồ lại nói sai. Nước ta khi vua bị bắt, tên nước cũng bị
xóa bỏ, khi ta giành lại nền độc lập thì không phải là giải phóng thì là cái
gì? Tôi tin là dù nước ta có biến đổi thế nào thì ngàn đời sau những người có
lương tri cũng sẽ còn nguyền rủa những thằng phản bội, phản đạo lý! Trên trang Hiệu
Minh có
một comment thật hay, đã ví Bùi Tín như “miếng giẻ chùi máu”:
“‘cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước’ nói như thế có đúng hay không, theo tôi là không đúng”,
tôi đã rời màn hình đi thắp một nén nhang để viếng hương hồn của hàng triệu
bà con bị chết đói năm 1945 và hàng nghìn người Hà Nội, trong đó có ko ít
giáo dân đã chết thảm do Christmas Bombing. Tôi đã thề rằng, từ nay sẽ ko bao
giờ đọc Bùi lão gia nữa, bỡi nhẽ ông ta chẳng qua là một miếng giẻ chùi máu
trên giày của bọn thực dân đế quốc nói chung và tù binh phi công Mỹ nói riêng”.
Chưa hết, trong số ca
ngợi ủng hộ Huy Đức còn có những ông “Việt cộng” chính hiệu nữa.
Nguyên Ngọc viết: “Cuốn
sách này nói về những sự thật khốc liệt, nhưng vì rất trung thực nên nó khiến
ta bình tĩnh hơn trong thế giới và giữa đất nước khốc liệt ngày nay”. Về
mặt văn chương, ở đây Nhà văn Nguyên Ngọc lại sai về “tiếng Việt” rồi.
Như lần trước tôi cũng đã chỉ ra trong truyện ngắn Rẻo cao khi nhà văn ngửi thấy mùi hương mang màu tím. Hiện
tại đất nước chúng ta có những trì trệ, tệ nạn, nhân dân có nhiều “bức xúc”,
nhưng vẫn đang tăng trưởng, nhà văn viết “đất nước khốc liệt” là sai!
Trong quá khứ, “vụ Báo Văn Nghệ” có thể là “khốc liệt”, nhưng chỉ
với riêng ông mà thôi. Còn Huy Đức theo ông là “trung thực” thì
chỉ xin trích ý kiến người trong cuộc là Nhà báo Lưu Đình Triều, con nhà báo
kỳ cựu Lưu Quý Kỳ, viết trên Tuổi trẻ: “Huy Đức đã viết không đầy đủ, nên
làm sai lệch bản chất. Anh đã “vẽ” ra một “hố sâu thực sự” giữa hai cha con
và cả gia đình tôi nữa. Sự việc còn cay đắng hơn là qua đó hiện lên hình ảnh
của một người cha không có tình cảm, tình người ngay với chính đứa con trai
duy nhất của mình.
Huy Đức à, ba tôi mất
cách đây ba mươi năm, nói theo dân gian là đã mồ yên mả đẹp rồi, thế mà...
Vâng, sự trích đoạn
tới đâu là quyền chủ quan của người viết, nhưng nếu trung thực và để đúng bản
chất sự việc thì Huy Đức không thể “cắt cúp” theo chủ kiến của mình”
Giáo sư Chu Hảo, nguyên
thứ trưởng Bộ Khoa học - Công nghệ, viết:
"Huy Đức viết
công trình khảo cứu lịch sử đặc sắc này với lương tâm trong sáng và tay nghề
lão luyện của một nhà báo chuyên nghiệp có trách nhiệm trước vận mệnh của đất
nước. Có công minh lịch sử mới có hòa giải dân tộc thưc sự".
Công nhận đoạn này “hay”
thật, “hay” ở chỗ một người như ông Chu Hảo sao lại dở đến thế! Việc
ông cho Huy Đức “lương tâm trong sáng”; “có trách nhiệm”; “công
minh lịch sử”. Điều này thì có quá nhiều lý lẽ để phản bác nhưng ở đây
tôi chỉ hỏi ông một câu: vậy ông trả lời sao đây cho hương hồn cha ông, cụ
Chu Đình Xương, nguyên Giám đốc Ty Liêm phóng (Công an) Bắc Bộ, như chính ông
kể trên Báo Lao động, là người từng “có nhiệm vụ tổ chức bảo vệ vòng trong
cho Bác” khi Bác Hồ viết “Tuyên ngôn độc lập”; khi Huy Đức ca ngợi
những sĩ quan VNCH tự sát là “tuẫn tiết”? Tôi xin tra giúp ông: Tuẫn tiết có nghĩa là “chết vì nghĩa lớn”!
Vậy theo logic, mà chắc ông là GS vật lý phải giỏi, ông cho Huy Đức "công
minh" khi cho phía VNCH là chính nghĩa, thì cha ông, rồi kể cả ông
nữa, đã đi theo con đường phi nghĩa sao?! (Trích dẫn theohttp://googletienlang).
Còn những chuyện mà Trần
Hữu Dũng (Mỹ) viết: ““Bên Thắng Cuộc” lột trần nhiều “huyền thoại” về một
số lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam””; và Nguyễn Giang (BBC) viết: “Các
vụ ‘thâm cung bí sử’ trong chính trường Việt Nam, nhất là giới
tướng lĩnh như cái chết của các tướng Nguyễn Chí Thanh thời chiến
tranh, rồi những chuyện đột tử của các tướng Hoàng Văn Thái, Lê
Trọng Tấn, Đinh Đức Thiện sau này cùng một âm mưu bao vây, hạ thấp
tướng Võ Nguyên Giáp được mô tả thật sinh động”?
Trước kia, với dạng thông
tin “nhạy cảm” như vậy, các nhà chức trách chỉ cần cấm phát tán là xong,
nhưng giờ sao chặn được thông tin trên internet lan truyền bằng sóng điện từ?
Vậy chỉ còn cách là đối thoại sòng phẳng thôi.
Với Bác Hồ, Huy Đức cũng
có thấp thoáng viết về Bác. Như với trích dẫn: “Sau Hồ Chí Minh, Lê Duẩn
là nhà thiết kế chính, nếu không nói là duy nhất, của mô hình kinh tế miền
Bắc suốt từ năm 1960 đến 1975”; và chuyện TT Phạm Văn Đồng, khi viết Công
hàm gửi cho Trung Quốc “tán thành” tuyên
bố của họ về hải phận,
thì cũng đã “hỏi ý
Bác”.
Một nền kinh tế (từ 1960
đến 1975) mà tất cả tinh
lực giành hết cho cuộc kháng chiến còn kém là lẽ thường thì có gì mà phải
bàn. Nhưng cần phải hiểu, chuyện khoán sản cũng không phải là chân lý tuyệt
đối. Nên nhớ chính kinh tế tập thể đã làm Liên xô trở thành siêu cường
chứ không phải “khoán sản”. Tối trước xem ti vi thấy cảnh làm từ thiện cho
người vô gia cư ở Nga trong lễ Giáng sinh mà thấy quá xót xa! Chính sự sùng
bái cá nhân, vứt bỏ cơ chế kiểm soát quyền lực của Lê-nin đã biến LX trở về
một dạng phong kiến mới, đã phá hủy LX, chứ không phải chỉ là những yếu kém
của nền kinh tế tập thể!
Còn chuyện Công hàm của TT Phạm Văn Đồng thì phải hiểu,
cái chuyện lo giành lại cả nửa nước phải quan trọng hơn chuyện mấy hòn đảo
rất nhiều. Nhiều kẻ cho TT Phạm Văn Đồng đã “bán nước” thì thật bậy
bạ. Nếu tự dưng mang biển đảo dâng cho ngoại bang để mưu cầu quyền lợi cá
nhân thì rất đáng bị lên án, như Nguyễn Ánh dâng Côn Đảo cho Pháp để xin viện
trợ đánh Quang Trung chẳng hạn. Còn Công hàm của TT Phạm Văn Đồng mà “có
hỏi Bác” chỉ là một hành động ngoại giao tế nhị, là việc lướt qua chuyện
nhỏ để mưu cầu chuyện lớn. Còn bây giờ ta có điều kiện để đấu tranh đòi chủ
quyền thì phải đấu tranh, nhưng phải dựa vào chứng cớ pháp lý của lịch sử,
dựa vào luật biển quốc tế, kết hợp với sức mạnh của chính trị, ngoại giao,
kinh tế và quốc phòng; còn như mấy đứa đi biểu tình lăng nhăng thì chỉ làm
trò hề chứ được tích sự gì?
Còn với Bác, chỉ với hai
câu của Bác cũng đủ chỉ ra tầm vóc của Người, chúng là kim chỉ nam đã dẫn
công cuộc giành độc lập của ta đến thành công:
“Chính sách của ta
hiện nay là chính sách Câu Tiễn, nhưng nhẫn
nhục không phải là khuất phục”; “Chủ nghĩa Mác-Lênin Việt Nam là chủ
nghĩa Mác-Lênin có lý có tình!”.
Chính chủ nghĩa dân tộc
gắn liền với tinh thần quốc tế vô sản; lý tưởng “dân chủ, cộng hòa, độc
lập, tự do” là những nền tảng cơ bản của tư tưởng HCM. Chính vậy tư tưởng
của Người đã cao hơn cả Stalin, cao hơn cả Mao Trạch Đông, cao hơn cả mấy ông
tổng thống Pháp và Mỹ hồi gây chiến với VN; nó vượt qua ý thức hệ, qua chiến
tranh lạnh, qua cả hận thù, và chính là con đường mà thế giới đang đi hôm
nay. Chính vậy, từ năm 1923, trên Báo “Ngọn lửa nhỏ”, Ôxip Manđenstam
đã viết: “Từ Nguyễn Ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá… có lẽ là một nền
văn hoá của tương lai”. Và cũng chính vì thế mà UNESCO đã tôn vinh Người
là "Anh hùng giải phóng dân tộc,danh nhân văn hóa" (Hero of
national liberation and Great man of culture). Vậy mà Huy Đức, giống như việc
lấy bát ăn cơm sao đong được nước biển cả? Lấy gang tay chăm chăm nhặt xu lẻ
sao đo được cao rộng của Trời Đất?
Còn các nhà lãnh đạo là
những “Học trò xuất sắc của Người” cần phải hiểu họ là những bậc vĩ
nhân chứ không phải thánh nhân, mà vĩ nhân thì cũng là người, cũng có những
thói tật thường tình của con người. Với tôi, dù những chuyện thâm cung bí sử
là có thật đi chăng nữa thì các vị vẫn là những con người buộc ta phải kính
phục. Vì trước hết họ từng là những nhà cách mạng đã sẵn sàng xả thân vì
nghĩa lớn, bất chấp lao tù, đầu rơi máu chảy, và cuối cùng đã giành lại được
nền độc lập cho Tổ quốc, cho chúng ta được sống những ngày yên bình hôm nay.
Trường Chinh, người
trực tiếp lãnh đạo Cách mạng tháng 8 thành công, người cực kỳ nguyên tắc
nhưng cũng là người quyết liệt đổi mới, đã trở thành một “Tổng Bí thư của
đổi mới”. Nhân cách của ông thật vĩ đại, một lần chịu mất chức TBT nhận
kỷ luật thay cho tập thể, một lần từ chức TBT nhường cho thế hệ sau. Ông phải
chí công vô tư đến như thế nào, trí tuệ đến như thế nào, để đến như TBT Lê
Duẩn cũng luôn quý trọng và rồi tin tưởng trao lại trọng trách cho ông.
Đại tướng Võ Nguyên Giáp,
người “anh cả quân đội”,
“anh hùng Điện Biên”, “Tổng Tư lệnh” một
quân đội bách chiến bách thắng. Trong “Bên thắng cuộc”, Huy Đức cũng
đã theo đuôi một số người cũng như các nhà sử học nước ngoài cho rằng vai trò
của Đại Tướng bị TBT Lê Duẩn làm lu mờ trong giai đoạn chống Mỹ. Trong khi
chính ông viết trong hồi ký: "Với tôi, những năm công tác trong Bộ
Chính trị, Anh (Lê Duẩn) đã thường
xuyên trao đổi ý kiến, thường là nhanh chóng đi đến nhất trí trong những vấn
đề lớn; khi có ý kiến khác nhau thì tranh luận thẳng thắn, những điều chưa
nhất trí thì chờ thực tiễn kiểm nghiệm. Lúc mới ra Bắc, Anh thường tâm sự với
tôi những khó khăn trong công việc... Từ sau Đại hội III và Đại hội IV, tôi
đã ba lần đề nghị Anh là Tổng Bí thư kiêm luôn Bí thư Quân ủy Trung ương,
nhưng Anh nói với tôi: “Anh là Tổng chỉ huy lâu năm nên tiếp tục làm Bí
thư Quân ủy Trung ương, như vậy có lợi cho lãnh đạo”.
Cứ cho những chuyện “thâm
cung” quanh đời ông mà Huy Đức kỳ công kể trong “Bên thắng cuộc”
là có thật đi chăng nữa thì có hai điều:
Thứ nhất, xã hội chúng ta
quả là tốt đẹp, đúng là “cây ngay không sợ chết đứng”. Với chính trị
thì cái gì cũng có thể xảy ra. Thời phong kiến, ta từng đau đớn cho số phận
của Nguyễn Trãi đã bị tru di tam tộc sau khi có công rất lớn đuổi giặc Minh.
Trước nữa bên TQ, Hàn Tín sau khi giúp Lưu Bang lên ngôi Hán Cao tổ, đã bị Lã
Hậu chém chết cùng ba họ. Nguyên soái Zhukov, vị anh hùng diệt Phát xít cứu
nhân loại, cũng đã bị cách chức đột ngột và bị sỉ nhục công khai. Chủ tịch
Lưu Thiếu Kỳ thời Cách mạng Văn hóa thì bị cắt gân chân, khi chết bị thiêu
với con số 123. Với nước Mỹ thì gọn hơn, chỉ cần một tay súng núp đâu đó và
một con dao, đã có mấy đời tổng thống bị hạ sát. Còn Đại tướng Võ Nguyên Giáp
của chúng ta thì vẫn còn đó, vẫn trường thọ.
Thứ hai, nhân cách của
ông thật vĩ đại, một vị tướng từng chiến thắng bao quân thù, nhưng với đồng
chí, đồng bào, ông lại thật khoan dung, độ lượng, đó là thái độ được hòa
quyện bởi một nhà văn hóa và một thiền sư. Chứ ông đâu có như mấy người thuộc
lớp đàn em, đàn cháu thuộc cấp, mất tí quyền lợi, tí danh tiếng, đã vội trở
cờ, lật lọng, lộ nguyên hình bản tính tầm thường của mình. Vì thế danh tiếng
của ông sẽ mãi mãi ngời sáng. Theo wikipedia, Bách
khoa toàn thư quân sự Bộ Quốc phòng Mỹ viết: “Tài thao lược của tướng Giáp về
chiến lược, chiến thuật và hậu cần được kết hợp nhuần nhuyễn với chính trị và
ngoại giao... Sức mạnh hơn hẳn về kinh tế, tính ưu việt về công nghệ cùng với
sức mạnh áp đảo về quân sự và hỏa lực khổng lồ của các quốc gia phương Tây đã
phải khuất phục trước tài thao lược của một vị tướng từng một thời là thầy
giáo dạy sử”. Suốt cuộc đời mình,
ông đã thắng 10 đại tướng của Pháp và Mỹ. William
Westmoreland gọi ông
là "Tướng huyền thoại" (Legendary Giap)!
Vậy ai là người hại Đại
tướng?
Theo “Bên thắng cuộc”
mà Huy Đức đã cop nhặt từ những “tác phẩm” của Vũ Thư Hiên, Bùi Tín, v.v… cho
người dùng mọi thủ đoạn để hại Đại tướng, đồng thời cũng là một “hung thần”
của chế độ, chính là ông Lê Đức Thọ.
Với lê Đức Thọ, theo tôi,
có lẽ vì ông làm công tác tổ chức cả mấy chục năm, liên quan đến chức tước,
quyền lợi, khen thưởng, kỷ luật của cả hệ thống, nên người được thì hàm ơn,
còn người mất thì oán thán ông chăng?
Huy Đức đã cố công bôi
đen hình ảnh của của ông. Nhưng qua những sự kiện lịch sử và những đánh giá
của những người có trọng trách, Lê Đức Thọ trong “Bên thắng cuộc” lại
là người có nhiều công trạng và có trách nhiệm cao. Chỉ với dư luận ngoài lề
mà Huy Đức đã hóng hớt, nghe lỏm được từ những người giúp việc các nhà lãnh
đạo “ngồi lê đôi mách”, Lê Đức Thọ mới hiện lên như một “hung thần”
mà thôi. Tôi thấy lạ là với những người làm cái công việc đặc biệt này, lẽ ra
ngoài tài đức cũng cần phải có nhân cách đặc biệt, phải là người có ý tứ, cẩn
trọng. Với người thường, việc nói xấu sau lưng người khác đã là tối kỵ, tại
sao những người này, với những chuyện tày đình, sao họ lại có thể nói với Huy
Đức tự nhiên như mấy con mụ lắm điều vậy?! Cho dù họ thấy đúng 100% như đã kể
thì cũng cần phải hiểu, cả lãnh tụ, cả các nhà lãnh đạo tối cao cũng có những
lúc họ mặc quần đùi chứ không thể cả đời mặc lễ phục nghiêm trang được, nên
trong sinh hoạt họ cũng có thể có bỗ bã, cũng có thể có thiên kiến, không thể
coi lời của họ lúc đó là phát ngôn chính thống được.
Huy Đức viết: “Trần
Nhâm, thư ký riêng của Trường Chinh, kể: Trong một phiên họp Bộ Chính trị, cụ
Duẩn đã ốm lắm nhưng vẫn dự. Ông mặc bộ đồ pi-gia-ma tới, chỉ mặt Lê Đức Thọ:
“Có phải có những trung ương ủy viên anh rút từ trong tay áo ra?” Lê Đức Thọ
tái mặt” (tr.357).
Trần Nhâm không thể được
họp Bộ Chính trị sao có thể thấy “Lê Duẩn chỉ mặt Lê Đức Thọ”?
Nhưng ở chỗ khác, cũng chính Huy Đức đã viết ngược lại: “ Đối với các trường hợp được giới
thiệu vào Bộ Chính trị, theo ông Nguyễn Đức Tâm: “Anh Thọ càng thận trọng xét
đi xét lại kỹ lưỡng, báo cáo Bộ Chính trị rồi trao đổi lại với từng người
một, cứ như vậy cho đến khi có sự nhất trí trong Bộ Chính trị rồi mới giới
thiệu ra Trung ương” (tr. 372).
Còn chuyện tham vọng làm
Tổng Bí thư, Huy Đức viết:
“Theo ông Đoàn Duy
Thành và Hoàng Tùng, … Lê Đức Thọ …xin Lê Duẩn: “… anh giới thiệu với Bộ
Chính trị… để tôi thay anh đi”. Ông Lê Duẩn nói: “Với tình hình Đảng ta bây giờ,
anh chưa thay tôi được mà phải Trường Chinh”. Tháng 4-1986, Lê Đức Thọ lại
đến, lần này … Ông Thọ, được tả là đã quỳ xuống chân Lê Duẩn nhưng bị Lê Duẩn
hất ra: “Anh lạ thật, tôi đã từ chối rồi. … Tôi đã nói rồi, Trường Chinh”.
Cứ cho chuyện này hoàn toàn
là có thật tôi cũng thấy bình thường, bởi tham vọng quyền lực cũng là lẽ
thường. Có điều thể hiện ở mỗi người, mỗi nơi mỗi khác, ở Mỹ thì nó huỵch
toẹt cả ra; như Obama trúng cử, cả ông, cả gia đình, cả những người ủng hộ đã
mừng vui đến thế nào. Lê Đức Thọ, với tài năng và công lao, ông hoàn toàn
xứng đáng làm Tổng bí thư. Còn ông thực sự tham ác, như Huy Đức theo đuôi dư
luận đểu thêu dệt về ông, thì với một người nghe nói đã lập ra cả chục ban bệ
kiểm soát, có quyền sinh quyền sát với biệt danh “Sáu Búa”, ông hoàn
toàn có thể đoạt được quyền lực bằng hành động cực đoan. Nhưng không, khi
thấy mình không đủ uy tín, ông đã “chịu thất bại”. Như vậy, ông đúng
là có tinh thần dân chủ và là người nghiêm chỉnh phục tùng tổ chức. Còn câu
Huy Đức viết ông Lê Duẩn nói với Lê Đức Thọ: “Những khi nào cần nổi danh
là anh cứ xin tôi, đi Paris, rồi đi miền Nam khi sắp giành chiến thắng”(tr.
358) thì thật buồn cười, có thể trong một giây phút cáu gắt ông Lê Duẩn nói
không chuẩn, còn chuyện đi Pa-ri, chuyện vào chiến trường của Lê Đức Thọ là
chuyện đại sự quốc gia, có lẽ nào một vị TBT lại hành xử như vậy!
Thực tế đã chứng tỏ
ngược lại, Lê Đức Thọ từng là nhà cách mạng sẵn sàng quên mình vì nghĩa lớn,
mới 15 tuổi đã tham gia hoạt động, 18 tuổi đã bị Pháp bắt tù, chính Huy Đức
viết: “Hoàng Tùng, một người cùng quê, bị bắt chung, kể: “Phan Đình Khải
(tên thật Lê Đức Thọ) bị tra tấn rất dã man, vẫn không khai về hoạt động bí
mật của mình. Sau một lần bị đánh đau trả về buồng giam, trông thấy tôi trong
lỗ cửa sổ buồng khác, anh nói nhỏ: ‘Phải dũng cảm, khai thì chết bỏ mẹ đấy’ (tr.440).
Đặc biệt, Huy Đức đã bỏ
nhiều công sức viết về mối quan hệ giữa Lê Đức Thọ và Đại tướng Võ Nguyên
Giáp nhằm “bôi đen” ông. Nhưng theo Huy Đức:
“Vụ án Chống Đảng” mà
Lê Đức Thọ tiến hành được Trợ lý của Tổng Bí thư Lê Duẩn, ông Trần Quỳnh, kể:
“Đặng Kim Giang khai, linh hồn của tổ chức là Võ Nguyên Giáp. Họ liên lạc với
Đại sứ Tchecbakov”. Đại sứ Tchecbakov được coi là một “sĩ quan tình báo” của Liên
Xô” (tr.441).
Như vậy, nếu Đại tướng là
người trong sáng thì người xấu phải là người vu oan cho Đại tướng chứ
không phải Lê Đức Thọ, vì ông là người phải thực thi trọng trách của mình.
Chưa hết, còn một loạt
chuyện tày đình về âm mưu ám sát lãnh tụ và giết các tướng lĩnh mà những kẻ
xấu đã vu cho Lê Đức Thọ cũng đã được tung lên mạng từ lâu, in đi in lại, nay
Huy Đức lại sưu tập lại.
Về chuyện này, thật tiếc
không hiểu sao hệ thống tuyên truyền chính thống hoàn toàn bỏ ngỏ, để dư luận
đen mặc sức lan tràn như cỏ dại, như nấm độc. Phải chăng họ cho những gì
không phải chính thống thì không quan trọng? Có điều, sự tiếp nhận thông tin
của người ta chỉ tùy thuộc vào ấn tượng chứ đâu có thuộc vào chính thống hay
không. Như chuyện “Biệt thự
của Thủ tướng”, “Nhà thờ họ của Thủ tướng”, “Chủ tịch Trương Tấn Sang copy
trong kỳ thi”, v.v… thì chính tôi đây lúc đầu cũng tin luôn. Nhưng rồi
với những phản bác có đầy đủ chứng cớ, mọi ý đồ xấu đã bị dập tắt. Còn những
chuyện trên về Lê Đức Thọ, nếu suy xét kỹ, ta cũng sẽ thấy là bịa hết.
Như chuyện máy bay chở
Bác hạ cánh. Nếu làm lệch hệ thống đèn tiêu đường băng phải cần nhiều người
thi công mới có được, vì liên quan đến hệ thống điện, mà đường băng thì rất
dài. Vậy làm sao giữ được bí mật đây? Trong khi Bác là thần tượng tuyệt đối,
có ai lại im lặng trước một âm mưu ám sát lãnh tụ kính yêu của mình?! Còn tại
sao lại có chuyện ông Vũ Kỳ kể, để rồi Nhà văn Sơn Tùng viết ra; bản chất vụ
việc thế nào để rồi người ta suy diễn thì tôi cũng không sao hiểu nổi.
Còn dư luận về một loạt
tướng lĩnh chết do bị đầu độc thì chính tôi lúc đầu cũng bán tín bán nghi.
Nhưng chính qua “Bên thắng cuộc”, vì Huy Đức viết tỉ mỉ, nên tôi cũng
lại thấy toàn bịa hết.
Tôi từng làm ở viện
nghiên cứu dược và công ty Sát trùng chuyên về thuốc độc, với xyanua kali
(Potassium cyanide), chỉ cần 300 mg, sau 10 giây đã làm người ngộ độc mất ý
thức rồi chết ngay, còn những loại không làm người ta chết ngay thì đều gây
ra những triệu trứng ngộ độc ghê ghớm rồi mới bị chết. Nhiều tác phẩm điện
ảnh, văn chương đã miêu tả cho khớp với sắp xếp của tác giả nên không đúng
với thực tế.
Còn các vị tướng của ta
như Đại tướng Nguyễn Chí Thanh “Sau một đêm trằn trọc bên người vợ tại nhà
riêng” được đưa đi cấp cứu rồi chết tại bệnh viện với kết luận do “nhồi
máu cơ tim”; Đại tướng Hoàng Văn Thái cũng qua đời sau một cơn đau tim
tại Quân
y viện 108; còn Đại Tướng Lê Trọng Tấn sau khi gặp Lê Đức Thọ lên
xe về nhà riêng, rồi cùng ăn cơm với em rể là Tướng Lê Ngọc Hiền, hai ông còn
“nói với nhau vài câu ngắn” rồi bỗng nhiên Tướng Tấn mới “gục
xuống bàn”, rồi cũng được mang đi cấp cứu rồi chết tại bệnh viện với kết
luận do “nhồi máu cơ tim”.
Như vậy cả 3 ông không
thể bị đầu độc bằng xyanua và trước khi chết cũng không có triệu chứng ngộ
độc mà đều có những triệu chứng đúng như bệnh viện kết luận là nhồi máu cơ
tim. Với bệnh này thì đến Giáo sư Tôn Thất Bách, một chuyên gia về tim mạch
cũng không thoát được, khi lấy viên thuốc cấp cứu ngậm dưới lưỡi không kịp.
Bản thân Huy Đức cũng cho các ông đúng là có thể chết do bệnh, nhưng tại sao
Huy Đức lại còn cố tình thêm thắt để hướng độc giả đến những điều mờ ám? Để
rồi Nguyễn Giang cũng phụ họa thêm là “được mô tả rất sinh động”! Cần
phải biết giết người là tội ác! Mà vu cho người ta tội giết người cũng là
những kẻ độc ác!
Với TBT Lê Duẩn, người
lãnh đạo cao nhất nước ta giai đoạn đất nước giành toàn thắng. Cũng thật là
bậy bạ khi cũng có dư luận cho ông cùng Lê Đức Thọ làm những chuyện mờ ám. Cả
thế giới từng chứng kiến bài điếu tang ông đọc trong lễ truy điệu Bác, có lẽ
là hay nhất trong toàn bộ lịch sử thế giới. Chính trong “Bên thắng cuộc”
Huy Đức cũng viết: “Khi đứng cạnh linh cữu Hồ Chí Minh, như nằm ngủ trong
cỗ quan tài bằng pha lê, trước sự chờ đợi của muôn dân, theo ông Đậu Ngọc
Xuân: “Anh Ba khóc. Chưa bao giờ anh khóc, nhưng lần đó anh đã khóc”. Còn
có chỗ Huy Đức nhắc lại ý một số người cho TBT Lê Duẩn muốn “vượt mặt Bác”,
thì chỗ khác Huy Đức lại viết: “Lê Duẩn đã tuyên bố: “Ở Việt Nam chỉ có
Bác xứng đáng làm Chủ tịch Đảng. Ai muốn làm chủ tịch thì cứ làm, tôi không
dám”.
Nhiều chi tiết về TBT Lê
Duẩn, vì là sự thực, Huy Đức không thể viết khác đi, nên đã khắc họa nên một
Lê Duẩn, không chỉ là nhà cách mạng quên mình vì nghĩa lớn mà còn là một con
người rất đức độ, tình nghĩa: “đến
nhà bà mẹ nào, anh em thư ký, bảo vệ leo lên nhà ngủ, còn anh ngủ dưới ghe”;
“Theo quyết định của Trung ương, sau khi sắp xếp tình hình xong, anh sẽ tập
kết. Nhưng, anh liên tục điện ra Trung ương và tới lần thứ 3 thì Trung ương
và Bác Hồ đồng ý cho anh ở lại”; “nhổ neo, nhưng chỉ ít giờ sau, có một chiếc
ca-nô âm thầm cập sát vào thành tàu. Ông Lê Duẩn hôn chia tay vợ con, bà Thụy
Nga kể: Nước mắt anh chảy xuống mặt tôi, anh nói: “Anh thương vợ con anh thế
nào thì anh cũng thương vợ con đồng bào, đồng chí như thế, nên anh phải ở
lại. Em ra Bắc ráng nuôi dạy hai con nên người”.
Khi lần đầu đọc Hồi ký
của bà Thụy Nga, bản thân tôi đã quá bất ngờ vì cứ nghĩ TBT Lê Duẩn
quyền uy tuyệt đối sao lại có thể gặp rắc rối vì luật Hôn nhân Gia đình do
hoàn cảnh hoạt động cách mạng đặc biệt của ông: “Tôi nói: ‘Các anh chị đề
nghị chúng ta ly dị nhau’. Anh khóc và nói: ‘Trong hoàn cảnh nào chúng ta lấy
nhau, giờ trong hoàn cảnh nào chúng ta bỏ nhau? Có làm Tổng Bí thư đi nữa mà
phải bỏ nhau trong lòng anh sẽ không bao giờ yên ổn. Người cộng sản thì phải
có thủy, có chung, có tình có nghĩa’. Tôi khóc”.
Không chỉ là người chồng
tình nghĩa, Lê Duẩn cũng có một tình đồng chí với Trường Chinh thật cao đẹp,
nó vượt cao hơn tình người thông thường, một tình cảm vì dân vì nước. Như lẽ
thường, TBT Lê Duẩn phải muốn giao quyền cho ông Lê Đức Thọ, người luôn gắn
bó với mình, nhưng không, ông đã trao quyền cho Trường Chinh, người ông thấy sẽ
gánh vác trọng trách tốt hơn. Với Đại tướng Võ Nguyên Giáp, cũng chính Lê
Duẩn đã gạt đi những chuyện rắc rối quanh ông.
Với tư cách nhà lãnh đạo,
công trạng bao trùm của Lê Duẩn có lẽ là việc ông đã truyền cái quyết
tâm sắt đá giải phóng Miền
Không chỉ là một nhà lãnh
đạo kiên quyết, cứng rắn, khi cần Lê Duẩn cũng có một thái độ rất mềm dẻo vì
mục đích tối tượng của đất nước. Theo Trần Quỳnh, khi Lê Duẩn được cử sang “kiến
nghị Liên Xô xem xét lại quan điểm của mình” trong giai đoạn “xét lại”,
phía Liên Xô đã chuẩn bị “phản kích lại ta”. Nhưng khi gặp, Lê Duẩn
lại nói về triển vọng của cách mạng Miền
Riêng chuyện về TBT Lê
Duẩn thì quả thật tôi phải cám ơn anh chàng “San Hô” này, vì “Bên thắng
cuộc” đã cho biết thêm những điều thú vị về ông.
Còn rất nhiều chuyện viết
về “Bên thắng cuộc”, nhưng có lẽ 4 bài của tôi cũng đã nói lên được
những nét chính. Để kết lại tôi thấy 2 điều cơ bản:
- Vô cớ khơi gợi nỗi đau
người khác, cái điều người ta muốn quên đi, đã là không nên. “Bên thắng
cuộc” đã không thế mà lại còn cắt xén, làm sai lệch bản chất sự việc, bôi
xấu nhân phẩm người ta, thì thật là bất nhân, như trường hợp anh Lưu Đình
Triều chẳng hạn. Cố công tuyên truyền những chuyện ngồi lê đôi mách, không có
chứng cớ pháp lý, vu oan giá họa cho người thì thật là độc ác, như trường hợp
ông Lê Đức Thọ chẳng hạn. Tôi nghĩ anh Lê Nam Thắng con cụ Lê Đức Thọ và anh
Lưu Đình Triều con cụ Lưu Quý Kỳ hoàn toàn có thể kiện Huy Đức ra tòa về tội
xuyên tạc, vu cáo, xúc phạm danh dự công dân.
- Không chỉ dừng lại ở
chuyện xúc phạm cá nhân, gia đình, dòng tộc, mà Huy Đức còn liều lĩnh xổ toẹt
công lao của bao thế hệ quân dân cả nước, những anh hùng liệt sĩ đã hy sinh
vì nền độc lập của Tổ quốc, khi viết:
“Nhưng không phải
chiến trường mà truyền thông Mỹ đã làm thay đổi nhận thức của người dân Mỹ”
về chiến tranh VN.
Thật là ngu xuẩn, mất
dạy, không có chiến trường thì truyền thông Mỹ đưa tin gì?
Rồi:
“Thật khó có thể
hình dung điều gì sẽ xảy ra cho miền Bắc Việt
Thật là trì độn, phi lịch
sử, phi thực tiễn, mới có cái nhìn lộn ngược như thế!
Thực ra hoàn toàn không
phải do ngu dốt mà Huy Đức có cái nhìn khác, mà Huy Đức là người tỉnh táo
bình thường nên hoàn toàn hiểu những lẽ hiển nhiên ở đời. Huy Đức viết vậy là
đã cố tình nói ngược để mưu cầu những toan tính của mình. Rất mong các cơ
quan có chức năng cần có biện pháp thích đáng với Huy Đức. Nếu được tự do xúc
phạm người khác, được tự do lộn ngược và bôi đen lịch sử , kích động bất ổn
của cả xã hội, sẽ không chỉ xúc phạm đến danh dự cá nhân mà còn là nguy cơ
dẫn đến sự mất tự do của cả dân tộc!
Cần phải lên án và ngăn
chặn!
TPHCM
21-1-2013
Trích theo ĐÔNG LA
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét