10:04
Ủy ban giải
Nobel đã sai lầm đáng tiếc
TP - Hình
như trên các phương tiện thông tin, ít thấy đề cập cuộc phỏng vấn dài giữa
ông Lê Đức Thọ với nữ phóng viên hãng thông tấn Mỹ UPI Synvana Foa ngày
15-3-1985? Bà S. Foa sau này là người phát ngôn của Tổng Thư ký Liên Hợp Quốc.
Cuộc phỏng vấn thú vị
Trong số cán bộ phục vụ, ông Lưu Văn
Lợi là người hiếm hoi chứng kiến từ đầu đến cuối. Những dòng ghi chép với
chức phận người thư ký có những dòng đại loại:
Tôi đã có 15 câu hỏi
của bà, tôi có thể trả lời tổng hợp vào 4 vấn đề. Về giác ngộ cách mạng của tôi.
Những khó khăn trong công tác mà tôi đảm nhiệm và ước vọng của tôi. Về Hội
đàm
Vào thời điểm ông Lê Đức Thọ từ chối
giải Nobel Hòa bình, bằng chất giọng ôn tồn điềm tĩnh, ông cố vấn truyền đạt
lại cho người thư ký nội dung trả lời Ủy ban Giải thưởng Nobel... Có một chút
tò mò háo hức, tôi rụt rè đề nghị ông Lợi cho xem nội dung.
Ông Lợi ngồi lặng một lát như đang nhớ
lại điều gì. Rồi ông đứng dậy, chậm chạp lên gác. Trong tay ông là một xấp
giấy. Háo hức đón lấy. Thì ra, người thư ký năm xưa vẫn vẹn nguyên sự cẩn
trọng cần thiết? Trên tay tôi vẫn là nội dung bản trả lời phỏng vấn của bà
phóng viên UPI.
Tôi hiểu, trả lời của ông Lê Đức Thọ
với bà phóng viên Mỹ gần như là toát yếu nội dung thư phúc đáp Ủy ban Giải
thưởng Nobel mà ông Thọ là tác giả.
"Bây giờ tôi nói về Giải thưởng
Nobel. Chúng tôi biết, Giải thưởng Nobel là một giải thưởng lớn với thế giới.
Từ xưa đến nay có ý nghĩa hết sức quan trọng. Nhưng tại sao tôi không nhận?
Tôi không phải có khó khăn như bà nói đâu. Chỉ một điều là ai làm cho hòa
bình? Bà biết rằng đây là giải thưởng Nobel cho hòa bình.
Mỹ tiến hành xâm lược đất nước tôi 20
năm. Người chống Mỹ và làm cho Mỹ thất bại, giành độc lập đưa hòa bình cho
đất nước và cho cả khu vực này là chúng tôi. Người làm hòa bình là chúng tôi
chứ không phải Mỹ.
Trong thư gửi Ủy ban Giải Nobel, tôi đã
phân tích kỹ Mỹ tiến hành chiến tranh như thế nào? Nhưng Ủy ban Giải đã đặt
ngang bằng kẻ xâm lược và người bị xâm lược, giữa kẻ gây chiến tranh và người
tạo (làm) hòa bình. Coi chúng tôi cũng như Mỹ. Điều đó là sai lầm và tôi
không thể chấp nhận như vậy. Vì vậy tôi đã không nhận Giải thưởng Nobel!
Bây giờ Việt Nam đã
thống nhất, ông có nhận lại giải thưởng đó không?
Về cơ bản với tính chất của giải thưởng
đó nó đã sai lầm ngay từ đầu, sai lầm cơ bản. Nếu bây giờ có giải thưởng
riêng cho tôi thì tôi nhận.
Nhưng dù sao ông vẫn
đi vào lịch sử như là người đã giành được giải thưởng đó?
Lịch sử ghi lại như vậy. Như đối với
chúng tôi đó cũng là điều mà Ủy ban giải Nobel có sai lầm. Một sai lầm đáng
tiếc".
Coi qua biên bản bài phỏng vấn nữ phóng
viên UPI, thú vị khi biết thêm chi tiết về... những cái đập bàn của cố vấn Lê
Đức Thọ!
Cũng cần nói thêm, những cái đập bàn ấy nó lạ đến mức các yếu
nhân như Thủ tướng Trung Hoa Chu Ân Lai, Bộ trưởng Ngoại giao Liên Xô Gromyko
phải lấy làm ngạc nhiên (có lẽ mình chả thể hành xử được như ông Lê Đức Thọ
nọ trước người khổng lồ Cố vấn an ninh Kissinger và
ông này sau là Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Hoa Kỳ?) Gẫm thêm thời điểm ấy, và cả
cho đến sau này, trong số các chính khách hành tinh, hình như chưa có ai dám
hành xử đại loại thế?
Xin trích ra đây câu hỏi của nữ phóng
viên UPI:
"Trong trường
hợp nào ông nói rằng Kissinger là người nói dối?
Trong khi hội đàm với ông ấy, nhiều khi
ông ấy (Kissinger - NV) đồng ý rồi ngày mai lại lật ngược! Cho nên quá trình
đàm phán những lúc như vậy tôi đã dùng những câu như vậy. Có lúc tôi cũng đập
bàn. Ngoại trưởng Pháp Dobre hỏi tôi, có phải ông bảo Kissinger là người nói
láo không, tôi bảo phải và ông ấy từng viết trong hồi ký như vậy. Khi trở về
Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai hỏi có phải đồng chí đập bàn khi hội đàm với
Kissinger không? Tôi trả lời đúng".
Có chuyện ép Mặt trận
Quảng Trị?
Ngập ngừng nhưng rồi trong không khí
chuyện trò cởi mở, tôi cũng bộc bạch ra được với ông một băn khoăn... Gần đây
có dư luận, cụ thể là một cuốn sách đang xới lên việc những người chỉ huy
chiến dịch Quảng Trị năm 1972 từng phải chịu rất nhiều áp lực từ các cuộc Hội
đàm giữa Kissinger và Lê Đức Thọ!
Rằng không hiểu ông Lê Đức Thọ bằng con
đường nào, đã thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn đang tham chiến ở Mặt
trận Quảng Trị không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để nắm tình hình
vừa tự ý đôn đốc đánh. Rằng ngay từ năm 1972 nhiều ý kiến phàn nàn “Cố đánh
Quảng Trị là do nhu cầu đàm phán” v.v…
Ông Lợi vẻ nhẫn nhịn ngồi nghe… Để ý
suốt cả cuộc nói chuyện, ông hầu như không ngắt lời khách. Thái độ ấy như là
một thứ gien trội luôn thường trực của những người ở ngạch ngoại giao? Mãi
một lúc, giọng ông mới khẽ khàng:
Như mọi người đều biết, sau chuyến thăm
Bắc Kinh của TT Mỹ R. Nixon ngày 22-3-1972, Mỹ tuyên bố ngừng họp Paris vô
điều kiện.
Ngày 30-3-1972, Quân giải phóng miền
Nam mở chiến dịch Xuân Hè tấn công từ Quảng Trị đến Tây Nguyên và Đông Nam
Bộ. Ngày 6-4-1972, TT Mỹ R. Nixon ra lệnh ném bom lại miền Bắc VN.
Sau chuyến thăm Matxcơva tháng 5-1972,
ngày 11-6-1972 đoàn Mỹ gửi công hàm cho đoàn ta ở
Thời điểm đó, ta đã giải phóng được
Quảng Trị và Lộc Ninh. Trên cơ sở đánh giá tương quan lực lượng so sánh thế
lực giữa ta và địch trên chiến trường quan hệ Mỹ - Xô - Trung và tình hình
nội bộ chính trị nước Mỹ, Bộ Chính trị quyết định đã có thể tới lúc đi vào
giải pháp đàm phán ở Paris.
Cố vấn Lê Đức Thọ sẵn sàng gặp riêng
Kissinger chậm nhất là vào ngày 15-7-1972.
Một cuộc họp kín giữa Lê Đức Thọ và
Kissinger đã được đôi bên thỏa thuận vào ngày 2-5-1972. Tình hình chiến
trường đã giúp phái đoàn ta đến
Sáng 1-5-1972, Quân giải phóng chiếm
cầu Quảng Trị và sân bay. Ngày 2-5-1972, Quảng Trị được giải phóng.
Một tuần trước đó, Quân Giải phóng đã
triển khai một cuộc tấn công lớn đe dọa Kontum và Pleiku; tiêu diệt khoảng
một nửa Sư đoàn 22 của Sài Gòn. An Lộc, một thị xã cách Sài Gòn hơn 100 km
cũng gần như thất thủ.
Gần sát cuộc gặp, Sư đoàn 3 của Việt
Nam Cộng hòa bị tiêu diệt hoàn toàn. Ở Quảng Trị, nhiều đơn vị Việt Nam Cộng
hòa bỏ chạy tán loạn.
Nhiều thời điểm chúng ta đã nhuần nhuyễn khéo léo phối hợp hiệu
quả giữa chính trị - quân sự - ngoại giao. Những dẫn chứng trên đây chứng tỏ
sự nhịp nhàng giữa đánh vàđàm, kết hợp giữa thực tế chiến trường
với bàn đàm phán (Đánh
đàm
Và mọi người đều biết, sau đó chiến
dịch bảo vệ Thành cổ Quảng Trị kéo dài, thương vong rất lớn, ta đã chịu nhiều
tổn thất.
Việc rút khỏi Thành cổ sau 81 ngày đêm
chiến đấu một cách bi hùng không thể nói là không ảnh hưởng đến bàn đàm phán
nhưng không làm thay đổi cục diện cũng như quan điểm cuộc đàm phán Paris.
Cũng cần nói thêm một điều hiển nhiên,
quyết định thành bại ở chiến trường phải là người lính là sự phối hợp, điều
phối chỉ huy từ Quân ủy và Bộ Tổng Tham mưu đến Tư lệnh các chiến trường
trong việc tiến công lẫn phòng ngự. Nếu nói cố đánh Quảng Trị do nhu cầu đàm
phán là hạ thấp vai trò của chỉ huy cũng như người lính!
Còn nói đồng chí Lê Đức Thọ không rõ
bằng con đường nào, đã thường xuyên điện thẳng cho các sư đoàn đang tham
chiến ở Mặt trận Quảng Trị không qua điện đài của Bộ Tổng Tham mưu, vừa để
nắm tình hình vừa tự ý đôn đốc đánh là chưa hiểu thực tế thông tin liên lạc
đặc thù cũng như cung cách thông tin thời điểm đó trên mặt trận ngoại giao.
Qua câu chuyện tất nhiên còn nhỏ giọt
(có thể đến thời điểm này chưa phải toàn bộ tài liệu về cuộc hòa đàm Ba Lê
đều đã được giải mật?) của người thư ký, tôi tạm hiểu toàn bộ các bức điện từ
thông thường đến Mật cũng như Tối mật liên quan đến cuộc đàm phán, sau khi
được mã hóa đã được chuyển từ Hà Nội đi Matxcơva qua thiết bị riêng do Liên
Xô giúp đỡ.
Từ Matxcơva, những thông tin ấy lại
được chuyển tiếp qua kênh liên lạc đặc biệt đến Trụ sở Phái đoàn ta ở
Do công việc, ông Lợi đều phải tiếp cận
với những thông tin đó với các cấp độ mật khác nhau. Vậy nói ông Lê ĐứcThọ
điện trực tiếp cho các sư đoàn (?) đang tham chiến, là điều không thể.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét