CAO
BẰNG ĐẦU NĂM 1979 (kỳ 6) Cập nhật lúc 08:25 Lợi dụng ánh sáng của những luồng đạn bay trên bầu trời nên tôi và người chiến sĩ của mình định hướng được mỏm núi có hang Ma Gà, chúng tôi nhanh chóng lao lên cửa hang mặc cho đạn địch bắn ầm ầm khắp thung lũng. Có nhiều bóng người chạy cùng hướng trên cánh đồng. Đó là các cán bộ, chiến sĩ cơ quan tiểu đoàn bộ. Vừa chạy đến cửa hang Ma Gà đã thấy trung đội trưởng Phạm Hoa Mùi đang nép bên vách đá. Nhận ra chúng tôi anh nhô ra đón. Anh hối hả giục tôi: - Triển khai
ngay máy móc! Khẩn trương đảm bảo thông tin liên lạc nhé! Tiểu đoàn trưởng
đang quát um lên ở trong hang kia kìa! - Vâng! Anh cứ
yên tâm... Tôi lập cập đáp
và quay lại bảo thằng Mông, chiến sĩ vô tuyến điện đang đeo máy chạy phía sau: - Đặt máy ở
phía bên phải cửa hang nhanh lên! Thằng Mông đeo
máy lao lên cửa hang. Nó vấp ngã dúi dụi. Tôi vội đỡ chiếc máy vô tuyến 884
cho nó. Chúng tôi nhanh chóng căng dây an-ten lên sườn núi, mở máy vô tuyến điện.
Sau vài phút mạng thông tin vô tuyến điện sóng ngắn đã được thiết lập. Từ vị
trí chỉ huy của tiểu đoàn đã thông liên lạc bằng mạng liên lạc vô tuyến điện
được với tất cả các hướng. Tổ đài vô tuyến của chúng tôi phải đặt ở ngay ở
ngoài cửa hang. Loại máy vô tuyến sóng cực ngắn 884 do Trung Quốc sản xuất
này không thể đưa sâu vào trong hang được vì vướng địa hình sẽ mất liên lạc
ngay. Do ở ngay ngoài cửa hang tôi cũng thấy hơi sợ mỗi khi luồng đạn pháo
của địch bay ngang qua trước mặt. Những quả đạn pháo của địch lao vào vách
của dãy núi phía trước mặt tóe lửa, nổ đinh đầu, lộng cả óc. Bọn địch đang
bắn ĐKZ sang nên những luồng đạn đi rất thẳng, rất căng. Nhưng quả đạn khi
đâm vào vách núi đá trước mặt tiếng nổ nghe rất đanh chói tai lộng óc. Cửa
hang Ma Gà vuông góc với các đường đạn bắn thẳng của bọn địch từ phía bên kia
biên giới lại khuất sau một ngọn núi đá vôi nên khá an toàn. Ở ngoài cửa hang
Ma Gà nên tôi quan sát được tình hình phía dưới cánh đồng trước mặt, phía các
bản Cốc Vường, bản Cốc Nghịu và hướng các điểm chốt cây đa của Đại đội 11 ở
sát đường biên. Tiểu đoàn
trưởng Trần Tất Thiêm và chính trị viên Hoàng Quốc Doanh đã có mặt ở hang Ma
Gà trước khi chúng tôi đến. Thượng úy, tiểu đoàn trưởng Trần Tất Thiêm đang
qua điện thoại chỉ huy các đơn vị. Tiểu đoàn trưởng lệnh cho Đại đội 11 cho
bộ đội vào hầm ẩn nấp tránh pháo và hỏa lực bắn thẳng của quân Trung Quốc,
tăng cường quan sát, sẵn sàng nổ súng chặn đánh bộ binh và xe tăng của bọn
địch. Tiểu đoàn trưởng Thiêm rất nóng tính. Anh vừa ra lệnh, vừa quát mắng,
văng tục ầm ĩ mỗi khi cấp dưới không thực hiện theo đúng theo ý định của
mình. Anh quát tháo bộ phận thông tin của chúng tôi chậm chễ, không khắc phục
nhanh các tuyến đường dây điện thoại lên các trận địa bị đạn pháo địch băm
nát. Tôi không quan tâm nhiều đến những quát mắng của tiểu đoàn trưởng. Tôi
chỉ lo lắng và tập trung giữ vững bằng được mạng liên lạc vô tuyến điện với
các đơn vị, nhất là với Đại đội 11 đang ở các điểm chốt tiền tiêu phía trước
sát cửa khẩu Bình Mãng. Tôi biết pháo địch bắn sang dày đặc như thế này thì
các tuyến đường dây điện thoại sẽ bị băm nát, liên lạc bằng truyền đạt cũng
sẽ rất khó khăn và rất chậm chạp, chỉ có liên lạc bằng vô tuyến điện là đảm
bảo được. Các đơn vị liên
tục báo cáo tình hình về chỉ huy tiểu đoàn. Đại đội 11 báo cáo: “Hỏa lực địch
bắn rất mạnh vào trận địa, nhiều hầm hào, công sự bị phá hủy, quân số bị
thương vong, trang bị hỏng hóc chưa nắm được đầy đủ...". Tôi vội vào
trong hang báo cáo lại nội dung trên với tiểu đoàn trưởng Thiêm. Khi vừa quay
ra thì tôi lại tiếp tục nhận được báo cáo của Đại đội 11: "Bộ binh Trung
Quốc bắt đầu vượt qua đường biên giới tiến vào bản Nà Sác. Ở khu vực thị trấn
Bình Mãng có nhiều tiếng xe cơ giới, xe xích gầm rú”. Một lúc sau Đại
đội 11 báo cáo tiếp: “Bọn địch bắt đầu triển khai tấn công điểm chốt cây đa
thứ nhất". Tiểu đoàn
trưởng Trần Tất Thiêm lệnh cho Đại đội 11 nổ súng chặn địch. Chính trị viên
Hoàng Quốc Doanh bảo tôi điện ngay cho chỉ huy Đại đội 11: “Quân địch sẽ đông
gấp bội, các đồng chí phải hết sức chú ý hai hướng: Sườn núi đá sau bản Nà
Sác và bờ suối dưới chân chốt cây đa thứ nhất. Kiên quyết tiêu diệt địch giữ
vững trận địa. Pháo binh trung đoàn và hỏa lực của tiểu đoàn sẽ chi viện cho
Đại đội 11 chiến đấu chặn giặc”. Lúc đó là
khoảng 5 giờ sáng. Xe tăng và bộ
binh Trung Quốc tràn qua biên giới. Bọn địch chia làm ba mũi tấn công sang
chốt cây đa thứ nhất. Mũi chính diện gồm xe tăng và bộ binh dọc theo bờ suối,
mũi thứ hai từ triền núi đá tràn xuống, mũi thứ ba từ bản Nà Sác đánh lên. Những chiếc xe
tăng nhãn hiệu “Bát-nhất” bò lổm ngổm như lũ cua trên cánh đồng. Hàng ngàn
tên giặc bành trướng đen đặc, lúc nhúc như một đám giòi bọ bu bám dưới chân
các điểm chốt của Đại đội 11. Bọn chúng hò hét tràn lên trận địa của ta.
Tiếng kèn còi xung trận của bọn chúng râm ran khắp nơi. Đạn pháo từ bên kia
biên giới thì vẫn bắn sang rất dữ dội. Đất đá, khói bụi bay mù mịt. Nguy hiểm
nhất là bọn địch ở trên mỏm núi cao phía trên trận địa của Đại đội 11. Bọn
chúng dùng súng 12ly7, cối 60 nã đạn trực tiếp xuống đầu bộ đội ta. Mỏm núi
đá này ăn sâu vào đất ta, có hệ thống các lô cốt rất kiên cố. Theo hiệp định
phân định biên giới giữa Pháp và nhà Thanh trước đây thì đoạn biên giới chỗ
cửa khẩu Bình Mãng có mỏm núi đá cao thuộc Trung Quốc ăn rất sâu vào đất ta.
Lẽ ra mỏm núi này phải là lãnh thổ của Việt Nam mới đúng. Từ trên mỏm núi ấy
bọn địch đặt đài quan sát và các ổ hỏa lực có thể khống chế toàn bộ các điểm
chốt cây đa thứ nhất, chốt cây đã thứ hai cho đến tận các bản Cốc Vường, bản
Kéo Nghìn. Các chiến sĩ Đại đội 11 vận động dưới chiến hào sâu lút đầu người
vẫn có thể bị trúng đạn bắn tỉa của bọn địch từ trên cao bắn xuống… Tiểu đoàn
trưởng Thiêm lệnh cho Đại đội 11 nổ sung, kiên quyết chặn đánh quân xâm lược,
bảo vệ trận địa... Cứ thế, đơn vị báo cáo về, lệnh của tiểu đoàn xuống các
đại đội được truyền qua mạng thông tin vô tuyến điện của tôi luôn thông suốt. Đại đội 11 là đơn
vị đầu tiên của Tiểu đoàn 3 nổ súng chặn đánh bộ binh và xe tăng của quân xâm
lược Trung Quốc. Các khẩu đội cối 82 và 12ly7 của Đại đội 12 ở trên Lũng Mật,
Lũng Vỉ đã tích cực chi viện rất hiệu quả cho Đại đội 11 giữ chốt. Ngay buổi
sáng ngày 17-2, Đại đội 11 đã tiêu diệt được 2 xe tăng và gần 300 tên địch,
giữ vững được trận địa. Bọn địch mấy lần bị đẩy lui xuống cánh đồng. Tin
chiến thắng báo về khiến mọi người ở sở chỉ huy tiểu đoàn rất phấn khởi. Qua mạng liên
lạc bằng máy vô tuyến, Đại đội 11 báo cáo rõ thêm tình hình: “Trung đội phó
Trần Xuân Ngọc xuống tận bụi tre dưới chân chốt sát con đường từ cửa khẩu
xuống phục kích đón bắn xe tăng địch. Khi những chiếc xe tăng lao tới anh bắn
cháy một chiếc. Chiếc xe tăng bị bắn cháy ngay giữa đội hình bộ binh của
chúng khiến quân địch hoảng loạn. Trần Xuân Ngọc đã hy sinh khi chuẩn bị bắn
quả đạn thứ hai”. Chiếc xe tăng của quân xâm lược Trung Quốc do Trần Xuân
Ngọc bắn cháy cũng là chiếc đầu tiên do Tiểu đoàn 3 tiêu diệt. Trần Xuân Ngọc
quê ở xã Đại Đình, huyện Tam Dương, Vĩnh Phúc. Ngọc nhập ngũ tháng 11-1976,
là chiến sĩ của tiểu đội tôi khi còn làm đường ở Hà Giang. Ngọc đã có vợ và
một con, tính tình hiền lành, ít nói, rất cần cù chịu khó trong công việc
hằng ngày. Sau đợt tấn
công đầu tiên của địch một số cán bộ, chiến sĩ Đại đội 11 hy sinh và bị
thương. Anh em bị thương được đưa ngay về tuyến sau. Từ trên hang Ma Gà tôi
nhìn thấy có cả mấy cô gái thanh niên xung phong và các nam nữ dân quân các
bản Cốc Sâu, Kép Ké cùng với bộ đội lên tuyến trước chuyển thương, tiếp đạn. Khoảng 8 giờ
sáng, bọn địch tổ chức đợt tấn công mới vào trận địa của Đại đội 11. Hỏa lực
các loại của địch bắn rất ác liệt vào các chốt cây đa và mỏm ĐKZ. Khi hỏa lực
địch chưa ngớt bộ binh và xe tăng của chúng lại tràn sang trận địa của ta.
Chỉ huy Đại đội 11 điện về tiểu đoàn báo cáo: “Địch đang tấn công rất dữ dội
vào trận địa. Đồng chí chuẩn úy Dương Đình Hà, chính trị viên phó đại đội hy
sinh. Quân địch đã chiếm được mỏm ĐKZ và phần lớn chốt cây đa thứ nhất. Đại
đội 11 xin hỏa lực bắn vào mỏm ĐKZ và phía trước điểm chốt cây đa thứ
nhất...”. Chỉ huy Đại đội 11 chưa báo cáo xong thì đường dây lại bị đứt. Tôi
nghe tiếng tiểu đoàn trưởng Thiêm nói như quát vào tổ hợp: - A lô... a lô
Đại đội 11... Đại đội 11 đâu...? Các chiến sĩ
hữu tuyến lại vội đeo máy vác cuộn dây lao xuống cánh đồng. Tôi vội bấm công
tắc tổ hợp máy vô tuyến gọi Đại đội 11. Tiếng chiến sĩ Châu vang lên rành rọt
trong tai nghe truyền đạt báo cáo tình hình của chỉ huy Đại đội 11: “Đại đội
11 xin pháo bắn vào chốt cây đa thứ nhất và mỏm ĐKZ”. Khi tôi báo cáo lại,
tiểu đoàn trưởng Thiêm quát: - Bắn vào đâu!
Hỏi lại xem Đại đội 11 xin hỏa lực bắn vào đâu ngay? Tôi lập tức hỏi
lại và vẫn nhận được báo cáo và yêu cầu khẩn cấp của chỉ huy Đại đội 11:
“Quân địch đã chiếm được phần lớn chốt cây đã thứ nhất, hiện nhiều tên đã lao
xuống tuyến công sự thứ hai rồi. Đại đội 11 đang chiến đấu rất quyết liệt
nhưng chưa đẩy lùi được quân địch vì bọn chúng quá đông. Xin tiểu đoàn cho
pháo bắn vào chính giữa cây đa thứ nhất...”. Tình hình căng thẳng
và khẩn cấp. Sau khi chỉ huy tiểu đoàn hội ý chớp nhoáng, tiểu đoàn trưởng
Trần Tất Thiêm lệnh cho tôi: - Gọi ngay cho
Đại đội 12, thông báo chuẩn bị phần tử bắn: “Chốt cây đa thứ nhất của Đại đội
11”. Tôi lập tức báo
ngay cho Đại đội 12 hỏa lực. Chỉ huy và các chiến sĩ ở đài quan sát của Đại
đội 12 vô cùng sửng sốt hỏi lại tiểu đoàn xem chỉ thị bắn vào đâu? Họ sợ bắn
vào quân ta ở chốt cây đa thư nhất. Tôi phải nhắc lại mệnh lệnh của tiểu đoàn
trưởng thêm một lần nữa. Tình huống lúc này trở nên vô cùng căng thẳng, nguy
cấp. Đại đội 12 chuẩn bị phần tử bắn xong, tiểu đoàn trưởng Trần Tất Thiêm và
chính trị viên Hoàng Quốc Doanh lại bảo tôi điện hỏi lại Đại đội 11 thêm một
lần nữa cho thật chắc chắn rồi mới hạ lệnh cho Đại đội 12 bắn cấp tập cối 82
vào điểm chốt cây đa thứ nhất. Ngay sau đó chúng tôi nhận được điện chỉ huy
Đại đội 11 báo về “Đạn cối của ta bắn rất chính xác, quân địch chết rất
nhiều”. Đại đội 11 đề nghị hỏa lực tiếp tục bắn thêm vào chốt cây đa thứ nhất
để đẩy lui bọn chúng xuống dưới cánh đồng bản Nà Sác... Cao Bằng-1979 Ghi chép của Trọng Bảo Theo Báo điện
tử Tầm nhìn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét