CAO
BẰNG ĐẦU NĂM 1979 (kỳ 4) Cập nhật lúc 08:00 Vị trí chỉ huy và cơ quan tiểu đoàn bộ Tiểu đoàn 3 tiếp tục dâng lên phía trước. Chúng tôi chuyển lên đóng quân ở bản Cốc Vường, ngay phía sau các điểm chốt tiền tiêu cây đa thứ nhất và chốt cây đa thứ hai của Đại đội 11, cách đường biên giới và cửa khẩu Bình Mãng độ hơn nửa ki-lô-mét đường chim bay. Bản Cốc Vường
còn rất ít người dân ở lại. Hầu hết trẻ em, phụ nữ, người già đã sơ tán về
phía sau hoặc lánh lên núi cao, chỉ còn một số dân quân, thanh niên trai
tráng ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ bản, trông coi nhà cửa và hỗ trợ bộ đội tuần
tra canh gác, vận chuyển đạn dược. Bản Cốc Vường là nơi có đền thờ Đại vương
Nùng Trí Cao, một nhân vật lịch sử sống vào những năm đầu thế kỷ XI
(1025-1053). Ông quê ở châu Quảng Nguyên (nay là tỉnh Cao Bằng). Lúc sinh
thời ông đã nhiều lần tổ chức lưc lượng chống phá quân giặc ngoại xâm góp
phần bảo vệ biên giới quốc gia Đại Việt. Nùng Trí Cao được nhà Lý phong làm
châu mục Quảng Nguyên, cai quản một vùng đất rộng lớn nơi biên ải bảo vệ bình
yên cho nhân dân. Sau khi ông mất, vua Lý đã sắc phong cho ông là Khâu Sầm
Đại vương. Nhân dân đã lập đền thờ vị tướng biên cương Nùng Trí Cao tại khu
vực bản Cốc Vường. Chiến tranh biên giới xảy ra, đền thờ ông bị đạn pháo quân
xâm lược bành trướng bắn phá tan tành. Nhân dân Sóc Hà đã xây dựng lại đền
sau năm 1979. Tiểu đội vô
tuyến của tôi ở trên căn nhà sàn nhô ra sát con đường lên cửa khẩu. Đứng trên
sàn nhà có thế quan sát các điểm chốt của Đại đội 11 và thấy rõ cả đài quan
sát của bọn Trung Quốc ở mỏm núi đá phía bên phải trên đầu điểm chốt cây đa
thứ nhất của Đại đội 11. Phía bên trái là trận địa Kéo Nghìn và bản Cốc Nghịu
do Đại đội 9 phòng ngự. Trên dãy núi đá là trận địa hỏa lực của Đại đội 12
gồm các khẩu đội 12ly7 và cối 82 bố trí tại Lũng Mật, Lũng Vỉ. Từ trên trận
địa của Đại đội 12 có thể quan sát rất rộng toàn bộ khu vực thị trấn Sóc
Giang và thị trấn Bình Mãng bên kia biên giới. Đại đội 10 thì chốt giữ ở phía
sau, trấn giữ con đường từ ngã ba Đôn Chương lên thị trấn Sóc Giang (huyện Hà
Quảng). Trận địa phòng ngự của Đại đội 10 là mỏm núi đất nằm ngay dưới chân
cao điểm 505. Cao điểm 505
nằm trên dãy núi đất cây cối rậm rạp chạy song song với dãy núi đá vôi xuôi
về phía xã Quý Quân và Mỏ Sắt, Thông Nông. Cao điểm 505 có tầm quan sát rộng,
khống chế toàn bộ thị trấn Sóc Giang và xã Sóc Hà cho đến tận ngã ba Đôn
Chương. Do phải di chuyển vị trí đóng quân lên bản Cốc Vường nên tiểu đội vô
tuyến sóng cực ngắn của tôi đều có mặt đầy đủ ở cơ quan tiểu đoàn bộ. Các tổ
đài đi tăng cường đảm bảo thông tin cho chỉ huy các đại đội đều rút về bản
Cốc Vường. Lâu lâu rồi chúng tôi mới lại có một bữa ăn có mặt đầy đủ toàn
tiểu đội thế này. Bữa cơm tối có một chút chất tươi. Nhà bếp cơ quan tiểu
đoàn bộ mổ con lợn lấy thực phẩm nên mỗi người được vài miếng thịt, miếng
lòng dồi. Vừa ăn, tôi vừa
tranh thủ phổ biến tình hình, động viên anh em và phân công công việc ngày
mai cho các bộ phận. Ngày mai là chủ nhật, trừ bộ phận trực đảm bảo thông tin
sẵn sàng chiến đấu số anh em còn lại của tiểu đội sẽ đi làm đất trồng ngô.
Chúng tôi đã được bà con dân bản cho mượn một vạt đất gần phía hang Ma Gà để
tổ chức tăng gia sản xuất. Mùa xuân đang tới. Mưa xuân tạo không khí ẩm ướt
cho một vùng đất đai khô hạn. Cây cối đang lên chồi nảy lộc. Mùa xuân cũng là
mùa cày cuốc gieo trồng trên vùng cao biên giới này. Nghe tôi phổ biến công
việc xong thằng Châu liền hỏi luôn: - Đánh nhau đến
nơi rồi mà vẫn đi trồng ngô hả anh? - Phải trồng để
lấy lương thực chứ! Khi nào đánh nhau hẵng hay... Nghe tôi nói
vậy anh em ồn ào bàn tán. Tiểu đội phó Vũ Văn Tự nói: - Khu đất sau
bản ấy rất màu mỡ, trồng ngô chắc sẽ tốt lắm đấy! Tôi nói thêm: - Ăn tối xong
mọi người tranh thủ vào các nhà dân trong bản còn có người ở lại mượn cuốc
xẻng để mai đi làm đất trồng ngô. Hạt giống tiểu đoàn sẽ cung cấp rõ chưa? - Rõ... rõ... Mọi người đáp
và nhanh chóng thu dọn xoong nồi, bát đũa. Mấy anh em khác thì tranh thủ đi
mượn dụng cụ lao động. Tôi rút cuốn sổ ghi chép ra nhưng chưa kịp viết gì thì
tiểu đội trưởng truyền đạt Nguyễn Văn Đam đến. Tôi và thằng Đam ngồi nói
chuyện với nhau. Đam nói: - Tao có linh
cảm là chiến tranh sắp xảy ra mày ạ! Tôi bảo: - Thì… chắc
chắn thế nào chiến tranh cũng sẽ xảy ra thôi. Tình hình như thế này chả sớm
thì muộn hai bên cũng phải choảng nhau một trận chí tử mới xong… Nghe tôi nói
vậy Đam càng có vẻ trầm ngâm rồi nó nói: - Biết bao giờ
chiến tranh mới kết thúc để bọn mình ra quân về nhà tiếp tục ôn thi vào đại
học nhỉ? Tôi ngập ngừng bảo: - Cũng chả biết
liệu bọn mình có còn cơ hội để học hành nữa hay không? Chiến tranh dù không
xảy ra nhưng nếu cứ nhùng nhằng mãi thế này cũng khó mà xuất ngũ ra quân
được… À… mày vẫn còn mang theo mấy cuốn sách giáo khoa để ôn thi đại học phải
không? Thằng Đam gật đầu. Tôi nhăn mặt bảo: - Tình hình thế
này cũng đã đến lúc mày vứt mẹ mấy cuốn sách ấy đi cho nhẹ khi hành quân, để
đeo thêm mấy băng đạn, vài cân gạo. Bao giờ chiến tranh chấm dứt chúng mình
tính sau? Thằng Đam im lặng thở dài không nói gì. Đoạn, nó xách khẩu AK đứng
dậy bảo tôi: - Thôi! Tao về
đây, sắp đến phiên đổi gác rồi! Tôi nhìn theo
thằng Đam tụt xuống cầu thang. Trông nó gầy gò nhỏ bé. Khi bóng thằng Đam đã
lẫn vào bóng đêm rồi tôi vẫn chưa thôi suy nghĩ về nó. Tôi và thằng Đam cùng
quê Lập Thạch, Vĩnh Phúc, cùng nhập ngũ tháng 2-1975. Hôm lên huyện tập trung
để dự lễ giao nhận quân tôi chỉ có một bộ quần áo mặc trên người và cái túi
đựng cuốn sổ ghi lưu bút của bạn bè. Trong khi đó thằng Đam đeo một cái bọc
to kềnh càng sau lưng. Tôi hỏi: - Mày mang theo
đồ đạc gì mà nhiều thế? Nó bảo: - Tao mang theo
sách vở để lúc nào rỗi thì học thêm. Hoàn thành nghĩa vụ trở về quê tao sẽ
tiếp tục thi vào đại học. - Mày viển vông
quá! Đang chiến tranh thế này biết bao giờ mới trở về đi học được? - Chiến tranh
rồi cũng phải kết thúc chứ! - Nhưng hành
quân súng đạn, gạo củi nặng bỏ mẹ mày còn đeo thêm sách vở thế nào được. - Tao sẽ cố... - Thôi mặc xác
mày! Nhận quân trang
xong, được cấp thêm bảy ki-lô-gam gạo nữa nên ba lô của chúng tôi căng phồng.
Tôi cứ tưởng là sẽ leo lên ô tô rầm rập phóng ra mặt trận ngay. Nhưng không,
chúng tôi được biên chế vào một đơn vị thuộc tỉnh đội. Và việc đầu tiên là
hành quân bộ vượt sông Lô sang huyện Lâm Thao huấn luyện. Đoạn đường gần năm
mươi cây số không xa, nhưng lần đầu tiên cuốc bộ lại không quen với đôi dép
cao su mới phát nên chân tôi chầy chật rớm máu. Tôi để ý thấy thằng Đam vẫn
lặng lẽ bước đi phía trước. Trông nó vóc dáng đã bé nhỏ nên như bị cái ba lô
đè gập người xuống. Tôi nghĩ: "Cứ đà này thì qua phà nó ném bọc sách vở
cho trôi sông Lô luôn!". Nhưng Đam vẫn
mang được bọc sách vở về đến đơn vị. Suốt thời gian huấn luyện chiến sĩ mới
lúc nào được nghỉ tôi thường thấy Đam chúi đầu vào mấy cuốn sách. Mặc cho tôi
và mấy thằng cùng tiểu đội khích bác nhưng Đam vẫn bỏ ngoài tai. Nhiều lần
gặp tôi nó khoe vừa giải được một bài toán khó trong tuyển tập đề thi đại
học. Tôi bảo: - Biết bao giờ
mới được ra quân mà mày học làm gì cho tốn công tốn sức? - Thì rồi đến
lúc cũng phải ra quân chứ. Chiến tranh chống Mỹ kết thúc rồi họ sẽ cho tụi
mình về thôi! Nhưng chúng tôi
không được xuất ngũ như thằng Đam nói. Đơn vị chúng tôi nhận lệnh hành quân
lên Hà Giang làm kinh tế. Chúng tôi nhận nhiệm vụ đào đất phá đá mở con đường
lâm nghiệp giữa rừng sâu. Đó là những ngày gian khổ nhất của cuộc đời chiến
sĩ chúng tôi. Sống giữa rừng sâu ăn uống thiếu thốn làm việc vất vả. Tôi và
Đam mỗi người về một đơn vị khác nhau. Hôm đi công tác qua Tiểu đoàn 1, tôi
tạt vào thăm thằng Đam vẫn thấy trên giá ba lô chỗ nó nằm những cuốn sách ôn
thi đại học đã sờn gáy. Thì ra, nó vẫn không quên việc học tập. Hình như đối
với nó học là một niềm vui hy vọng của cuộc sống. Niềm hy vọng
vào đại học của thằng Đam lại không thể thực hiện được khi chiến tranh biên
giới đang có nguy cơ nổ ra bất cứ lúc nào. Tôi còn nhớ bữa còn ở bản Nà Cháo,
một buổi tối, tôi đang nằm nghỉ sau một ngày đào hầm xây dựng trận địa thì
thằng Đam ở đâu về. Nó đưa cho tôi hơn chục miếng bìa cứng có những ký hiệu
bằng chữ và số được để trong túi giấy bóng kính cẩn thận. Nó bảo: - Đây là mã số
của từng người trong tiểu đội vô tuyến. Mày nhớ dặn mọi người luôn luôn để
trong túi áo nhé! Phòng khi... Nghe thằng Đam
nói tôi hiểu. Những tấm bìa này ghi mã số của từng người để khi ai hy sinh
thì chôn theo, sau này còn biết danh tính liệt sĩ. Nếu tôi nhớ không nhầm thì
mã số của tôi ngày ấy là JA-301. Hôm ấy, sau khi
đưa cho tôi những miếng bìa ghi mã số để đánh dấu mộ chí khi cần thiết xong
thằng Đam bỗng thần mặt ra một lúc rồi hỏi: - Không biết
sau trận này mình có được ra quân về đi học tiếp không nhỉ? - Chắc chắn
rồi! Mày cứ yên tâm... Tôi an ủi nó
nhưng chính tôi cũng không tin ở lời mình lắm. Tối hôm nay, thằng Đam lại nói
về chuyện học hành. Tôi thấy thương nó quá. Tôi mong chiến tranh sẽ không bao
giờ xảy ra để những người lính ham học như thằng Đam còn có được cơ hội bước
vào giảng đường đại học... Cao Bằng 2-1979. Ghi chép của Trọng Bảo Theo Báo điện tử Tầm nhìn |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét