11:09
Liệu Ngân hàng có bị lũng đoạn?
Giờ đây, giới phân tích kinh tế và giới bình luận
chính trị ở Việt
Vào tuần đầu tháng 4/2012, bầu không khí kinh tế Việt
Lãi suất huy động sẽ được giảm về mức 12%/năm.
Thực ra, cơ chế hạ lãi suất sẽ trở nên bình thường nếu điều
được gọi là “lộ trình” của nó diễn ra mà không bị chen lấn bởi những dụng ý
hết sức bất thường.
Trước lần dự kiến hạ lãi suất này, vào trung tuần tháng
3/2012, Ngân hàng Nhà nước Việt
Vì sao chỉ trong vòng chưa đầy một tháng lại đã có đến hai
thông tin về hạ lãi suất, trong khi suốt nửa năm trước, bất chấp 80.000 doanh
nghiệp các ngành sản xuất, nông nghiệp và xuất khẩu phải phá sản và ngừng
hoạt động do lâm vào cảnh khốn đốn vì đói vốn, Ngân hàng Nhà nước đã không
một lần thực hiện kéo giảm các loại lãi suất huy động và lãi suất cho vay?
Tái cấu trúc hay đầu cơ thâu tóm?
Trong mối “quan hệ” giữa người đứng đầu chính phủ và lãnh
đạo của Ngân hàng Nhà nước, người ta lại nhận ra khá nhiều điểm thú vị.
Được bổ nhiệm mới cùng thời với vai trò tái đắc cử của Thủ
tướng, Nguyễn Văn Bình – Thống đốc Ngân hàng Nhà nước – được giới thạo tin
Việt Nam xem như một “ngôi sao” trong hàng ngũ những người có khả năng kế cận
những chức vụ cao nhất của chính phủ. Được bầu chọn là ủy viên Trung ương
Đảng và được chọn lựa là một thành viên của Chính phủ mới, ông Bình chỉ xếp
sau vị trí Phó Thủ tướng.
Khác với người tiền nhiệm Nguyễn Văn Giàu, do nắm khá chắc
về nghiệp vụ chuyên môn, Nguyễn Văn Bình dường như đã nhanh chóng củng cố
được vị trí của mình với vai trò là cánh tay phải của Thủ tướng trong hoạt
động điều hành tín dụng và tiền tệ.
Nhưng cũng bởi không nắm được chuyên môn ngành ngân hàng,
và trong thực tế thì không thể nào nắm được, Nguyễn Tấn Dũng lại bị lệ thuộc
gần như tuyệt đối vào những mảng miếng số liệu và thao tác kỹ thuật đầy phức
tạp của Nguyễn Văn Bình, đặc biệt liên quan đến hoạt động điều hành lãi suất
liên ngân hàng và điều hòa vốn trong hệ thống thị trường liên ngân hàng.
Đó cũng là một hệ quả phải xảy ra, khi từ chủ trương của
Thủ tướng Dũng và Bộ Chính trị chấp thuận về chương trình tái cấu trúc ngân
hàng đến năm 2015, một số ngân hàng nhỏ đã bị ngân hàng lớn thâu tóm thẳng
thừng, thay cho việc hỗ trợ để duy trì thế tồn tại độc lập trong một nền kinh
tế bị phụ thuộc quá nhiều vào các nhóm lợi ích.
Sự việc vừa thâm trầm vừa đình đám khi ba ngân hàng Đệ Nhất
(Ficombank), Sài Gòn (SCB) và Tín Nghĩa (TinNghiaBank) được “hợp nhất theo
chủ trương của Đảng và Chính phủ” vào tháng 10/2011 là một minh họa điển hình.
Cũng vào thời gian này, người ta được biết đến vụ sáp nhập ở ngân hàng Bản
Việt – nơi bà Nguyễn Thanh Phượng, con gái của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng,
đang đóng vai trò chủ chốt.
Cũng cần lưu ý là trong suốt quá trình vụ việc trên xảy ra,
báo chí Việt Nam đã chỉ được Ban Tuyên giáo Trung ương định hướng để mô tả
bằng từ “hợp nhất” thay cho cách nói “thâu tóm” hay “thôn tính” có vẻ như quá
sỗ sàng và thẳng ruột ngựa.
Đến tháng 3/2012, giới ngân hàng thêm một lần nữa ồn ào khi
thêm một vụ thâu tóm nữa xảy ra: Ngân hàng Habubank được đưa về dưới trướng
của ngân hàng SHB. Một nghịch lý cũng đồng thời phát lộ là khi tin đồn về vụ
thâu tóm này lan ra khắp dư luận, dù trước đó khẳng định rằng tin đồn đó
không chính xác, nhưng khi vụ thâu tóm hoàn tất, Ngân hàng Nhà nước lại chính
thức có văn bản chấp thuận cho “hợp nhất thành công” này.
Không thể nhìn nhận khác hơn là dấu ấn rất rõ của Ngân hàng
Nhà nước qua các vụ thâu tóm trên. Trong suốt quý 4/2011, Nguyễn Văn Bình đã
trở thành chính khách có tần suất phát ngôn nhiều nhất về vấn đề ngân hàng.
Chủ trương tái cấu trúc đã được ông liên tiếp nêu ra trong các buổi điều trần
trước Quốc hội và thông tin cho báo giới. Một trong những nhiệm vụ trọng tâm
mà theo Nguyễn Văn Bình cần phải thực hiện tốt đối với tái cấu trúc ngân hàng
là giải quyết vấn đề thanh khoản còn rất khó khăn.
Nhưng “khó khăn thanh khoản” cũng lại là nguyên do chính,
sau khi nguy cơ lạm phát đã không còn đủ thuyết phục bởi chỉ số tiêu dùng CPI
nằm dưới mức 1% trong 5 năm liên tiếp cuối năm 2011, để Ngân hàng Nhà nước
chưa thể hạ lãi suất nhằm giúp cho nền kinh tế Việt Nam tái phục hồi tăng
trưởng được.
Phương châm điều hành tín dụng và tiền tệ “linh hoạt và
uyển chuyển” cũng là cụm bổ từ được Nguyễn Văn Bình kế thừa một cách sắc sảo
và đầy tính vận dụng từ Nguyễn Tấn Dũng, mà kết quả đã chỉ hiện ra một trò
chơi chữ nghĩa, trong khi toàn bộ nền kinh tế vẫn dài cổ ngóng đợi cơ chế bơm
tiền.
Trò chơi tín dụng và hậu quả dân sinh
Không phải Nguyễn Tấn Dũng không biết về những lần trì hoãn
hạ lãi suất của Ngân hàng Nhà nước. Trước sức ép không ngớt của công luận và
dư luận, vị Thủ tướng này đã bộc lộ thái độ nổi nóng đối với người cấp dưới
của ông trong những buổi họp chính phủ.
Vào cuối tháng 11/2011, trong buổi điều trần trước Quốc
hội, ông Dũng đã lần đầu tiên yêu cầu ông Bình phải giảm ngay lãi suất, và
yêu cầu này cũng được thể hiện trong hầu hết các nghị quyết phiên họp chính
phủ từ đó đến nay.
Nhưng đến sát Tết Âm lịch 2012, tình hình vẫn chưa có tín
hiệu xoay chuyển. Một cái Tết lại đến với hình ảnh phân hóa xã hội trở nên
sâu sắc hơn bao giờ hết: trong khi các ngân hàng ngồn ngộn tiền lãi và tiền
thưởng, nhiều doanh nghiệp lại không đủ tiền để trả lương cho công nhân.
Một con số mà chỉ sau Tết Âm lịch 2012 mới lộ ra là vào
trước Tết, Ngân hàng Nhà nước đã bơm khoảng 76.000 tỷ đồng cho các ngân hàng
– một động thái được đánh giá là nhằm cứu thanh khoản của ngân hàng.
Một con số khác mà vào đầu tháng 4/2012 mới được tiết lộ là lượng tiền mà
Ngân hàng Nhà nước bơm vào thị trường liên ngân hàng trước Tết lên đến hơn
170.000 tỷ đồng.
Trong khi đó, “thị trường” doanh nghiệp và dân sinh vẫn hầu
như không nhận được một đồng nào!
Trong bối cảnh lặng như tờ khi quý đầu của năm 2012 đã trôi
qua, dư luận và báo chí đã phải đồng thanh than vãn, kêu la trong một tâm
trạng hết sức bức xúc. Sự khó hiểu và nghi vấn đã dâng lên rất cao: vì sao
Ngân hàng Nhà nước lại cố tình trì hoãn việc giảm lãi suất, trong lúc gần như
toàn bộ nền kinh tế lâm vào tình trạng đình đốn sản xuất?
Đình đốn sản xuất cũng là thực trạng mà nền kinh tế cùng
phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam đang lâm vào trong thời gian này, một thực
trạng không thể phủ nhận được với tỷ lệ hàng tồn kho lên tới 60-70%, sức sản
xuất giảm đi 30-40%, bất chấp những con số vẫn thường cho thấy “những chuyển
biến tích cực” về GDP hay chỉ số tăng trưởng ở một số khu vực, như báo cáo
thường thấy của những ngành tham mưu đắc lực cho chính phủ như Bộ Kế hoạch và
Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước…
Đến lúc này, số doanh nghiệp bị phá sản và phải ngừng hoạt
động đã lên đến khoảng 80.000, tức bổ sung thêm vào “đội quân thất nghiệp dài
hạn” của năm 2011 khoảng 30.000. Hàng ngày, người dân đọc thấy nhan nhản trên
báo chí các thông tin về ngành thủy sản, mía đường, da giày, cà phê, thép, xi
măng… đang trong tình trạng nguy cấp, với tỷ lệ bình quân đang lâm vào nguy
cơ phải phá sản và ngừng hoạt động lên đến 30-40%, thậm chí có ngành đến 2/3.
Khác rất nhiều với năm 2008, chính phủ và các bộ ngành ở
Việt Nam không thể lấy lý do khủng hoảng kinh tế thế giới như một “tác động
tiêu cực” mà đã làm cho nền kinh tế Việt Nam trở nên tồi tệ như hiện nay. Bất
chấp kết quả của Nghị quyết 11 của chính phủ ban hành vào tháng 2/2011 về
thắt chặt chi tiêu công và tín dụng, kết quả kiểm tra tình hình chi tiêu tại
rất nhiều chính quyền địa phương ở Việt Nam vẫn phản ánh một tình trạng “đi
đêm” không thể chấp nhận được. Thậm chí tại một số địa phương, chi tiêu công
vẫn đều đặn tăng lên, công trình xây dựng trụ sở chính quyền vẫn tiếp tục mọc
lên, cho dù GDP của địa phương giảm sút trầm trọng. Riêng tại một số khu vực
chịu ảnh hưởng của thiên tai, đã xảy ra hiện tượng đói ăn.
Nếu Lang Hàm Bình, một giảng viên của Trường đại học Hồng
Kông và cũng là một chuyên gia phản biện có uy tín, đã phản bác thẳng thừng
rằng con số 8-9% tỷ lệ tăng trưởng GDP của Trung Quốc thật ra chỉ là số ảo,
thì với Việt Nam, điều được gọi là “quyết tâm” của chính phủ trong việc duy
trì GDP ở mức 7-8% trong năm 2011 và 6-7% trong năm 2012 thật ra cũng chẳng
có ý nghĩa gì.
Ngược lại, uy tín của chính phủ và cá nhân Thủ tướng chưa
bao giờ bị suy thoái đến thế trong nhận thức người dân. Tất cả những công
việc được gọi là “điều hành kinh tế linh hoạt và uyển chuyển” trong những năm
qua chỉ mang đến hậu quả quá lớn về tham nhũng, nợ công, nặng thuế và đời
sống ngày càng trở nên khốn khó của đại bộ phận dân chúng, trong đó có cả một
bộ phận công chức và viên chức nhà nước.
Thủ tướng cũng trở thành con tin!
Sau ít nhất năm lần yêu cầu hạ lãi suất mà không có kết
quả, có vẻ như Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã không còn giữ được kiên nhẫn với
Nguyễn Văn Bình. Vai trò của Thống đốc – từng được xem là sáng giá vào tháng
8/2011, nhưng sau 8 tháng điều hành lại đã bị báo chí phản ánh và phê phán
quá nhiều về sự lạm dụng để làm lợi cho các nhóm lợi ích đầu cơ vàng và ngân
hàng, trong khi bỏ mặc nền kinh tế chết đói.
Thông tin từ vài cuộc họp của chính phủ với ngành ngân hàng
cho thấy Thủ tướng đã cảm thấy uy tín điều hành của mình bị giảm sút đáng kể
trong dư luận xã hội khi để cho Ngân hàng Nhà nước “qua mặt” và đẩy nền kinh
tế vào thế đình lạm. Đó cũng là lý do vì sao vào đầu tháng 3/2012, với
thái độ “quyết liệt”, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã yêu cầu Ngân hàng
Nhà nước phải hạ ngay lãi suất.
Riêng lần này đã có kết quả. Nhưng cũng phải đến một tuần
sau chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, thông báo hạ lãi suất huy động mới
được Nguyễn Văn Bình nêu ra. Báo chí lại có dịp mổ xẻ nghi vấn về “độ trễ” đó
khi một số ngân hàng đã lợi dụng thời gian lệch pha này để hút tiền gửi của
khách hàng từ ngắn hạn sang dài hạn.
Tuy nhiên, việc Ngân hàng Nhà nước chính thức thông báo hạ
lãi suất từ 14% xuống 13% là hầu như không có ý nghĩa, vì trước đó khá nhiều
ngân hàng, cả lớn lẫn nhỏ, đều thực hạ lãi suất huy động và cho vay. Khác hẳn
với giai đoạn quý 4/2011, lần này các ngân hàng đều tự nguyện hạ lãi suất.
Một động thái thực tâm chia sẻ với doanh nghiệp chăng? Hay còn bởi nguyên do
nào khác?
Trong một cuộc họp của giới ngân hàng vào cuối tháng
3/2012, lãnh đạo của ACB – một ngân hàng tư nhân thuộc loại lớn nhất ở Việt
Nam, đã tiết lộ một thông tin chưa có tiền lệ: ngân hàng này dư thừa đến 3 tỷ
USD mà không cho vay được. Ngay lập tức, thông tin này đã bổ sung cho nhiều
lời đồn đoán trước đây về thực trạng các ngân hàng trong nhóm G12 (một nhóm
ngân hàng lớn do Ngân hàng Nhà nước lập ra, chiếm đến 85% thị phần tín dụng
toàn quốc) luôn bị dôi dư vốn nhưng không làm cách nào “tiếp cận được doanh nghiệp”
do mặt bằng lãi suất cho vay còn treo cao đến hơn 20%. Mặt khác, thông tin
này này cũng khiến cho lý do “khó khăn thanh khoản” của Thống đốc Nguyễn Văn
Bình trở nên phi lý, lại càng cho thấy chủ trương tái cấu trúc ngân hàng thực
ra chỉ là một hoạt động ngụy tạo thêm những khó khăn cho nền kinh tế để phục
vụ cho ý đồ thâu tóm của những con cá mập lớn đối với cá mập nhỏ trong giới
ngân hàng với nhau.
Với thực trạng trên, có lẽ không quá đáng khi cho rằng
trong suốt một thời gian dài, nền kinh tế, doanh nghiệp, người dân và có lẽ
cả Thủ tướng đã trở thành con tin của chính Ngân hàng Nhà nước và nhóm lợi
ích ngân hàng ở Việt Nam.
“Bố già” nào phía sau Nguyễn Văn Bình?
Trở lại với hai thông tin về hạ lãi suất xảy ra trong chưa
đầy một tháng vào thời gian này, cùng với một dự thảo thông tư mới nhất của
Ngân hàng Nhà nước về việc đẩy mạnh cho vay chứng khoán và bất động sản mới
được công bố vào đầu tháng 4/2012, người ta có thể nhận ra thái độ “kiên
quyết” của Thống đốc Nguyễn Văn Bình đối với cơ chế nới lỏng tín dụng.
Với cặp mắt thâm sâu của giới đầu cơ, một khi kinh tế dân
sinh đã bị bỏ mặc trong hơn một năm qua, tín dụng chỉ có thể được nới lỏng
khi cần kích thích cho sự chuyển động của thị trường đầu cơ. Vậy thị trường
đầu cơ đó là gì?
Từ đầu năm 2012 đến nay, chứng khoán đã trở thành thị
trường đầu cơ đầu tiên tạo được “bước chuyển mình”, với tỷ lệ tăng đến gần
40%. Chất xúc tác mang tính quyết định cho sự chuyển động này đến từ Nguyễn
Văn Bình và cả Vương Đình Huệ – Bộ trưởng Bộ Tài chính, một người mà vào năm
ngoái còn được dư luận đánh giá khá cao qua quan điểm của ông “không thể vì
11 doanh nghiệp xăng dầu mà phải vì 84 triệu người dân Việt Nam”.
Hình ảnh thường được mô tả là hàng núi tiền đã được đổ vào
thị trường chứng khoán từ sau Tết Âm lịch 2012 đến nay. Những tin đồn ngày
càng được xác thực cũng là hàng núi tiền, thông qua nhiều con đường và nhiều
kỹ thuật khác nhau, đã được dịch chuyển từ khu vực ngân hàng sang các công ty
chứng khoán.
Với bất động sản, e là tình hình cũng đang có chiều hướng
biến chuyển tương tự như những gì đã diễn ra với thị trường chứng khoán. Với
cách nhìn của giới đầu cơ, những thông tin liên tiếp về hạ lãi suất sẽ không
thể làm cho giá nhà đất ở Việt
Chưa phải hết, nhưng những gì đã mô tả trong bài viết này
là một số sự việc chủ yếu, nằm trong chuỗi mắt xích chủ yếu, đã diễn ra trong
thị trường và cả chính trường tại Việt Nam trong 8 tháng qua, từ khi Chính
phủ mới được thành lập.
Giờ đây, giới phân tích kinh tế và giới bình luận chính trị
ở Việt
Trong thực tế, một nửa câu hỏi đã được giải đáp từ những
lời đồn đoán vỉa hè. Trong con mắt của người dân, không thể hiểu khác hơn là
nửa còn lại của câu hỏi đó vẫn cần được giải thích cặn kẽ ngay trong những tháng
tới, trước khi những đối tượng của câu hỏi gây ra hậu quả quá lớn cho quốc
gia.
Theo Phiatruoc.info
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét