10:01
Trò chuyện với người anh hùng ném bom xuống dinh
Độc Lập
Lê Duẩn, Võ Nguyên Giáp chúc mừng phi đội
Quyết Thắng
35 năm hoạt động, trên vai áo ông từng đeo quân hàm không quân
hai bên là đối thủ của nhau. 22.000 giờ bay với nhiều loại phi cơ chiến đấu
và dân dụng hiện đại nhất từ Đông sang Tây, từ Á sang Âu. Những nếm trải cuộc
đời, dường như Nguyễn Thành Trung chẳng thiếu thứ nào. Người ta thường nói
vinh quang đi cùng cay đắng. Còn ông, sống chết, tù tội chẳng màng, nhưng
những giây phút cô đơn trong cuộc sống hoà bình, ngay trong lòng đồng đội thì
thật dài và khó quên. Tháng tư đến rồi lại đi cùng ký ức…
Chặng đường lịch sử dài 38 năm có quá nhiều
biến cố, sự kiện ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975 đối với ông có ý nghĩa
gì? Bây giờ nghĩ về giây phút ấy ông cảm thấy thế nào?
Đối với cá nhân tôi, ngày 8.4.1975 là một bước ngoặt lịch sử quan
trọng nhất trong cuộc đời. Lái chiếc máy bay F-5E ném hai trái bom xuống dinh
Độc Lập, sau đó quay lại dùng súng phóng lựu vào kho xăng Nhà Bè, là hành
động mà tôi ấp ủ trong một quá trình dài, ngay từ thời trai trẻ.
Đối với tôi, chấm dứt chiến tranh để người Việt
Nhưng báo chí cả hai phía lúc đó chạy những
dòng tít lớn gọi ông là “phi công phản chiến”?
Đúng vậy, cấp trên nói với tôi là cần tuyên truyền như vậy để kêu
gọi những người trong lực lượng không quân Sài Gòn tiếp tục phản chiến. Tôi
nghĩ nói sao cũng được, vấn đề là tôi có làm được nhiệm vụ không? Có còn sống
để trở về không? Từ năm 1969, tôi đã là đảng viên.
Còn các đồng nghiệp của ông nói gì về hành động
của ông?
Ngay lúc đó thì tôi không biết họ nói gì, nhưng sau này nhiều
người cho là tôi hành động hơi dại dột, bởi trước mắt tôi là một hợp đồng với
phía Mỹ, sẵn sàng bảo lãnh vợ con tôi sang sống ở Mỹ với điều kiện tốt nhất.
Nhưng đó không là lựa chọn của tôi.
Vậy lựa chọn của ông bắt nguồn như thế nào, truyền thống cách
mạng của gia đình hay sự tự giác của cá nhân ông?
Ba tôi là một người yêu nước, chống thực dân và hy sinh tại quê
nhà. Các anh tôi cũng đi theo con đường yêu nước của ba tôi. Cái chết của ba
tôi, càng làm cho tôi ý thức rõ ràng hơn là phải góp phần làm cho chiến tranh
sớm chấm dứt, quê hương và dân tộc mình phải được sống trong cảnh thanh bình.
Tôi là người biết rõ mình là ai, mình cần phải làm gì. Những việc quan trọng
cần làm tôi luôn dự liệu trước hàng chục năm.
Thời khắc đó ông có nghĩ đến sự an toàn của vợ
và hai con còn quá nhỏ đang sống ở thành phố Biên Hoà? Có khi nào ông cảm
thấy khổ tâm hay hối hận về hành động của mình mang lại nỗi vất vả cho vợ con?
Trước khi ném bom dinh Độc Lập ngày 8.4.1975, lãnh đạo đề nghị
đưa vợ con tôi ra vùng giải phóng để tôi yên tâm làm nhiệm vụ. Nhưng lúc đó,
tôi bị nghi kỵ nhiều, nguy cơ bị lộ rất cao nên chuyện đó là không thể. An
ninh quân đội theo sát gia đình tôi từng giờ, nếu vợ con tôi vắng nhà không
rõ lý do thì tôi sẽ bị bắt ngay tức khắc. Cũng có thể trên đường ra vùng giải
phóng, vợ con tôi cũng sẽ bị bắt, tình thế đó sẽ nghiêm trọng hơn. Rất lo
lắng cho tính mạng vợ con, nhưng việc mà tôi đã tính trước 10 năm đến thời
điểm này là không thể dừng. Mặt khác, thời gian sống trong đội ngũ không lực
Sài Gòn cho tôi một niềm tin rằng vợ tôi, một người phụ nữ không liên quan gì
đến công việc của tôi, con tôi còn quá nhỏ (đứa lớn mới 5 tuổi, đứa nhỏ chưa
tròn năm) sẽ không bị đối xử một cách tàn nhẫn.
Thực tế diễn ra đúng như tôi dự đoán. Cánh an ninh không quân đưa
xe đến nhà bắt vợ con tôi. Vợ tôi phản đối vì mình không biết gì về
công việc của chồng. Họ từ tốn: “Thưa bà, chúng tôi không bắt bà (nếu bắt
chúng tôi đã dùng còng số 8, trói bà chẳng hạn), chúng tôi tới đây mời bà vào
phòng an ninh sư đoàn, với trách nhiệm bảo vệ sự an toàn tính mạng của bà và
các con bà. Nếu bà có tài sản quý giá nào thì bà cứ mang theo”.
Một tuần sau vợ và con tôi bị đưa từ Biên Hoà
về số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm – Sài Gòn cho đến ngày 30.4.1975. Đương nhiên, họ
vẫn điều tra vợ tôi về những gì liên quan đến tôi, nhưng không bị đối xử vô
nhân đạo. Có thể đó là những người có học và biết cách ứng xử một cách văn
hoá với người thân của kẻ thù.
Trong thời gian vợ tôi bị giam ở số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm, trung tướng
không quân Trần Văn Minh đến thăm với tư cách người chỉ huy có một người lính
phản chiến. Ông ấy hỏi vợ tôi có cần bạn bè, người thân đến chuyện trò gì
không hay cần mua sắm gì thì ông sẽ giúp đỡ.
Vậy đó, ngày 2.5.1975, tôi lái máy bay từ Phan Rang về sân bay
Biên Hoà. Vợ con tôi cũng vừa được giải thoát khỏi số 4 Nguyễn Bỉnh Khiêm,
chúng tôi gặp lại nhau trong ngôi nhà nhỏ của mình.
Sau ngày thống nhất đất nước, đối diện với bao
khó khăn của cuộc sống thường ngày do nền kinh tế bao cấp áp đặt, những lúc
ngột ngạt, mệt mỏi ông nghĩ gì?
Tôi là người được học hành tử tế trong những ngôi trường khá lý
tưởng của Sài Gòn và tiếp cận nhiều nguồn tài liệu khác nhau, tôi biết rõ
những sai lầm trong chính sách kinh tế của miền Bắc nước ta. Bi kịch cải cách
ruộng đất còn nguyên đó, công nghiệp chẳng có gì. Khu gang thép Thái Nguyên
còn thô sơ lắm, Dệt
Thực tế mười năm khó khăn như ông nói cũng đã được tháo gỡ bởi
bước chuyển đổi mới. Nhưng tới bây giờ, người ta lại tiếp tục đưa ra dự báo
mình lại đang hụt hơi, tụt đà. Ông nghĩ thế nào?
Thực ra đổi mới một phần vì khi mình tiếp xúc với thế giới mới
ngộ ra một điều là đang bị co trong vòng luẩn quẩn, không tìm ra lối thoát
trong khi thế giới ào ào tiến lên. Từ ảnh hưởng đó đồng thời tác động mạnh
của cuộc khủng hoảng Đông Âu tới mình và cả Trung Quốc, bắt buộc phải một
phần nào đó chấp nhận cách làm ăn mới, có sự tư hữu. Tư hữu của thế giới mình
không chấp nhận, nhưng con người có quyền tư hữu từ hàng ngàn năm về trước.
Mình luẩn quẩn trong khi thế giới đang tiến lên bởi mình không chấp nhận dân
làm giàu. Cho nên bắt buộc mình phải công nhận, phải chấp nhận tư hữu ở một
mức độ nào đó để dân thở được. Khi đó dân bắt đầu làm ăn được. Cải cách vì
vậy là do dân. Cuộc cách mạng này do dân và do lịch sử thế giới tác động. Nếu
muốn không tụt đà thì phải nương vào sức dân, dân giàu thì nước mới mạnh.
Sau ngày 30.4, ông có thường gặp lại đồng
nghiệp trong những phi đội cũ? Tình cảnh và và tâm thế lúc gặp lại như thế
nào?
Bẵng mười năm sau giải
phóng, tôi không gặp lại ai trong nhóm những đồng nghiệp cũ. Sau đổi mới, từ
năm 1986 trở về sau này, các đồng nghiệp cũ của tôi lần lượt về mới có dịp
gặp lại. Lớp tôi có 23 đứa, chết hết bốn, 18 đứa qua Mỹ, chỉ còn mình tôi ở
lại. Những lần gặp cũng dễ nói chuyện vì họ đã hiểu rõ mọi chuyện. Tôi cũng
hoàn toàn hiểu và tôn trọng họ. Đa phần những đồng nghiệp của tôi đều ở Mỹ.
Lúc mới về, tâm lý chung mấy người bạn đều ngại gặp tôi. Tôi thì chả ngại gì,
tôi vẫn xem họ là những người bạn. Khi gặp cũng tâm sự nhiều, cũng so sánh
chuyện cũ, chuyện bây giờ. Ai cũng công nhận việc tôi làm là góp phần chấm
dứt cuộc chiến tranh, chấm dứt cảnh chết chóc, đổ máu. Nhưng điều họ chia sẻ
là họ không dám có những quyết định như vậy.
Những người bạn lựa
chọn khác tôi lúc qua Mỹ còn trẻ nên ai hội nhập được, sống khá giả. Năm nào
mấy ổng cũng ngồi lại với nhau, chuyện nói nhiều nhất là về tôi. Nhiều anh em
bảo quyết định của tôi hơi dại dột, vì sau giải phóng sống kiểu gì cũng bị
nghi ngờ, đói khổ… Tôi trả lời đó không phải là quyết định bậy bởi tôi ý thức
được việc cần làm. Cái gì cũng vậy, làm thì phải trả giá nhưng tôi chấp nhận
việc đó. Nhưng qua những thăng trầm của đất nước, nhiều kinh nghiệm cuộc đời
đúc kết lại, tôi thấy việc tôi làm càng ngày càng đúng. Còn hỏi tôi có lăn
tăn hay không, tôi trả lời thật là thánh mới không lăn tăn, nhưng những cái
lớn nhất át những lăn tăn nhỏ đi, nên hàng đêm tôi ngủ yên vì biết tôi đang
ngủ trên đất nước mình, chứ qua Mỹ sướng thật nhưng ngủ không yên bởi lúc nào
cũng đau đáu một quê hương chỉ còn trong ký ức. Nhiều đứa bạn nói thẳng: “Đến
bây giờ mới nghe được một người nói điều đó là mày”. Chúng tôi gặp nhau trao
đổi thẳng thắn, không giấu giếm điều gì, nói đến tận cùng suy nghĩ của mỗi
người.
Với ông, quê hương là thế nào?
Tôi có tới hai quê hương. Một Bến Tre nơi tôi sinh ra, nơi đó là
dòng tộc máu mủ, nơi đó cha mẹ tôi đã nằm xuống cho chúng tôi trưởng thành.
Vốn là xứ học, địa linh nhân kiệt, nhiều tên tuổi trí thức lớn Việt
Còn một quê hương khác, Sài Gòn đối với tôi là máu thịt, là tình
yêu, là gì đó không thể lay chuyển được dù cho năm tháng trôi qua, nhìn góc
phố thay đổi, cũng nhiều lúc buồn vui hờn giận, tiếc nuối…
Ông từng thổ lộ về một người bạn rất thân, giữa
ông với người đó hình như có một món nợ ân tình đến nay vẫn còn đau đáu?
Người bạn ấy đến giờ sau 38 năm vẫn chưa gặp lại mặc dù tôi nghe
tin ảnh có quay về. Ảnh cùng ở phi đoàn phản lực không quân Sài Gòn với tôi
nhưng không phải cùng lớp. Anh ấy là một người đặc biệt. Khi đó, lãnh đạo báo
cho tôi biết có một cán bộ nội tuyến trong lực lượng pháo binh bị bắt khai có
một phi công quê Bến Tre là nội tuyến của Việt cộng. Tôi nhẩm tính trong
không quân có độ chục người gốc gác Bến Tre, riêng phi đoàn phản lực thì có
tôi và người bạn mà tôi kể ở trên, người cùng xã, cùng học trường tiểu học
nhưng trên tôi hai lớp. Khi thông tin bị lộ như thế thì tất cả những người
gốc Bến Tre đều bị triệu tập điều tra. Anh bạn tôi bị ngưng bay, an ninh
không quân gọi lên làm việc liên tục. Anh ấy không biết có chuyện gì, nhưng
tôi thì biết rõ nguyên nhân. Tuy lý lịch anh ấy không có vấn đề gì nhưng anh
có người chị học đại học sư phạm từng tham gia biểu tình chống Mỹ và chính
quyền Sài Gòn. Lúc đó, tôi cũng như ngồi trên lửa, nhiều chuyện không thể tâm
sự, chia sẻ với ai được. Khoảng một tuần sau, tôi gặp ảnh và tôi nghĩ ảnh
biết rõ về tôi, từ gia đình đến công việc của tôi. Ảnh nói: “Riêng mày thì
tao “ba không”, ai hỏi tao về mày tao cũng không biết, không nghe, không
thấy”. Khi nghe câu đó, tôi nhập tâm đến giờ, tới chết tôi sẽ mang theo lời
nói và hình ảnh của anh ấy.
Tôi ngẫm nghĩ ở đời có nhiều người cực xấu nhưng cũng có nhiều
người cực tốt. Cái tốt – xấu đó mong manh lắm, nhưng người ta không cần xác
nhận. Là bạn thân nên anh ấy bảo vệ chứ không phải vì tôi là Việt cộng hay
cán bộ mà anh ấy ứng xử như vậy. Trong thâm tâm tôi nhiều lần muốn gặp lại
anh ấy, nhưng để làm gì, nói một lời cảm ơn liệu có ý nghĩa gì? Tôi động viên
mình có lẽ trong tình cảnh ấy đến giờ chỉ cần hai tâm hồn bạn bè hiểu nhau là
đủ. Tôi nguyện cho tới chết tôi sẽ mang điều ấy theo.
Ông đã bước ra khỏi vỏ bọc của một điệp viên,
lái máy bay trên bầu trời hoà bình, và làm công việc đào tạo, hết lòng với
một thế hệ phi công trẻ Việt Nam. Điều đọng lại trong ông sau thời gian dài
gắn bó với công việc đào tạo, huấn luyện ấy là gì?
Giã từ cuộc chiến, tôi thấy mình làm khá nhiều việc mà những việc
đó chắc không phải ai cũng làm được. Hồi còn sống, anh Hai Trung (tướng tình
báo Phạm Xuân Ẩn) nói nửa đùa nửa thật: “Việc ông ném bom dinh Độc Lập, Nhà
nước phong ông anh hùng thì tôi không nói làm gì, còn công việc ông làm sau
này nếu được, tôi phong ông hai lần anh hùng nữa”. Anh Hai Trung hiểu về công
việc đặc thù của tôi. Khi giải phóng, cả một bề thế không quân chế độ cũ bỏ
lại, tôi là người làm sống lại phi đội A37 sau này tham gia đánh Tân Sơn Nhất
vào ngày 28.4 trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. F5 là máy bay chiến đấu
hiện đại nhất của Sài Gòn lúc bấy giờ mà Mỹ bỏ lại mấy phi đoàn nhưng không
có người bay. Giá trị vậy nhưng bỏ lại quá lâu bị hư hại nhiều, có chiếc bị
bắn phá thủng lỗ chỗ. Nhiều chiếc còn bị bộ đội tiếp quản tháo đi những tiện
nghi nội thất hay linh kiện quan trọng… Sau khi thành lập bộ phận tiếp quản,
tôi nhận nhiệm vụ làm sống lại những chiếc máy bay này. Khi sửa xong, tôi là
người bay thử. Phi công bay thử của người ta điều kiện bảo hiểm ngặt nghèo
lắm, còn tôi thì như con thiêu thân. Gần 50 lần bay như thế, tôi luôn sẵn
sàng tình huống nhảy dù khẩn cấp bởi máy bay có thể hư bất cứ lúc nào. Mỗi
lần bay, nhiên liệu chỉ cung cấp đủ phân nửa cơ số. Vốn là người nhạy cảm
trong cuộc sống, con ruồi bay qua tôi phân biệt ruồi đực hay ruồi cái, huống
chi chuyện nhiên liệu chỉ đủ bay một vòng trong bán kính hẹp. Điều lăn tăn mà
tôi kể trên là như vậy đó.
Tháng 8.1975 sau khi hồi phục xong rồi, tôi huấn luyện cả một phi
đội, bay thành thục F5 để thành lập trung đoàn không quân 935, sau này trở
thành trung đoàn anh hùng.
Đã quá cái tuổi lục thập nhi nhĩ thuận, còn
điều gì ông thấy hối tiếc, hoặc món nợ nào ông chưa trả được?
Đến giờ này tôi vẫn ân hận, tiếc là không được chết vì Hoàng Sa.
Ngày 18.1.1974, hải quân Trung Quốc đổ bộ lên chiếm đảo Hoàng Sa, phía Việt
Nam Cộng hoà khi đó có một đại đội địa phương quân chốt trên đảo Phú Lâm. Hai
bên đánh nhau, cùng có thương vong về con người nhưng quân số Trung Quốc đông
quá, 51 lính địa phương quân của ta bị bắt đưa về Trung Quốc. Việt Nam Cộng
hoà lên tiếng phản đối việc Trung Quốc dùng sức mạnh quân sự để chiếm đảo của
Việt
Lúc này hải quân của Việt Nam Cộng hoà không thể đổ bộ chiếm lại
đảo được. Ngày 19.1.1974, tổng thống Nguyễn Văn Thiệu điều năm phi đoàn F5,
bốn ở sân bay Biên Hoà, một ở sân bay Đà Nẵng, mỗi phi đoàn có 24 máy bay và
120 phi công ra Đà Nẵng chuẩn bị đánh lấy lại Hoàng Sa. Mọi người rất phấn
khởi, tụi tôi đi ra với tư thế là đi lấy lại một phần lãnh thổ đất nước. Sĩ
quan cấp tá ở các phi đoàn 520 – Nguyễn Văn Dũng, 536 – Đàm Thượng Vũ, 540 –
Nguyễn Văn Thanh, 544 – Đặng Văn Quang, 538 – Nguyễn Văn Giàu đều đã lên kế
hoạch tác chiến kỹ lưỡng.
150 phi công thuộc sáu phi đoàn F5 của không lực Việt Nam Cộng
hoà khi đó đều ký tên chung vào một lá đơn tình nguyện “Xin được chết vì
Hoàng Sa”.
Hàng ngày, máy bay RF5 có nhiệm vụ bay và chụp ảnh các toạ độ từ
nhỏ nhất ở Hoàng Sa, xem có thay đổi gì, tàu chiến Trung Quốc di chuyển ra
sao, bố trí các cụm phòng thủ thế nào… đưa về chiếu ra cho tất cả phi công
theo dõi. Tụi tôi đếm từng tàu một, thậm chí đếm được cả số ghi trên tàu,
chia bản đồ ra làm bốn, mỗi góc tư giao cho một phi đoàn, phi đoàn thứ năm
bay bảo vệ trên không. Họ có 43 tàu tất cả và quyết tâm của tụi tôi là đánh
chìm tất cả 43 tàu đó trong vài giờ.
Về không quân, vào thời điểm đó chúng tôi có nhiều lợi thế hơn
Trung Quốc. Bay từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa bằng cự ly từ đảo Hải
Một mảnh đất dù nhỏ cũng là tổ quốc mình, cha ông ta đã đắp xây
nên bờ cõi, là con dân của đất nước ai cũng có nghĩa vụ thiêng liêng gìn giữ
lấy. Tụi tôi háo hức sẵn sàng tất cả nhưng cuối cùng không được chết cho
Hoàng Sa. Tới bây giờ tôi vẫn ân hận. Sau này bạn bè tôi gặp lại nhau cũng
cùng một tâm trạng: đáng lẽ tụi mình chết cho Hoàng Sa thì vinh dự hơn!
Là người đi nhiều nơi, có điều kiện tiếp cận
với chuyện làm ăn, ông thấy phẩm chất, tư cách của người Việt Nam có đứng
được ở những thị trường minh bạch?
Cũng tuỳ người. Thí dụ như thị trường Lào, nhiều nhà đầu tư của
mình không dám qua đó nữa bởi vì làm kiểu nói dóc, hứa nhiều nhưng làm chẳng
bao nhiêu. Họ nói thẳng là mấy ổng đó qua họ không tiếp. Cách làm ăn của
người Việt mình cũng có nhiều cái người ta không chấp nhận, chỉ chụp giật,
bốc hốt ở đây thôi chứ ra ngoài người ta không chấp nhận.
Hiện nay ông có bằng lòng với cuộc sống của
mình?
Thời nào tôi cũng bằng lòng với hiện tại. Thời khó khăn nhất cũng
như khi đất nước đổi mới đến nay, tôi bằng lòng với những cái mình hiện có.
Đó là hạnh phúc tự tạo. Nếu để làm giàu tôi sẽ đi đường khác và tôi biết cách
làm giàu, nhưng tôi đã không lựa chọn như vậy. Tôi vẫn nghĩ “tri túc tiện túc
hà thời túc”, mình biết đủ thì lúc nào cũng đủ, còn ham muốn, lúc nào cũng
thấy thiếu thì không bao giờ đủ cả. Tôi bằng lòng với cuộc sống con cái học
hành đàng hoàng, lễ phép với cha mẹ. Hiện tôi vẫn chưa nhàn được, tôi vẫn đi
làm thuê, nhưng làm để vui, chứ làm để buồn thì tôi không bao giờ làm.
Để giải toả những mệt mỏi trong công việc, ông
có chơi thú giải trí gì khác?
Tôi cũng thích nhiều nhưng tự thấy mình không có điều kiện, chẳng
hạn như đánh golf , làm sao đủ sức, đủ tiền mà vác cái gậy mấy chục ngàn đô.
Đối với tôi bây giờ sức khoẻ là trên hết, liệu sức để làm việc thôi. Tôi sống
trên không nhiều quá rồi, giờ ngồi dưới đất thú thực là thấy tay chân tù
túng, bay một tí cho vui nên đến nay tôi vẫn bay đều.
Cảm ơn về cuộc trò chuyện chân tình và thẳng thắn của ông.
Theo SGTT
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét