Trung Quốc tạo ra cảnh 'bình yên giả
tạo' trên Biển Đông
Cập
nhật lúc 08:43
Các chuyên gia đồng ý rằng mối đe dọa từ hành vi
của Trung Quốc trên Biển Đông không chỉ nằm ở thương mại, Bắc Kinh còn có thể
làm suy yếu trật tự thế giới dựa trên luật lệ.
Hội thảo
Biển Đông thường niên lần thứ 9 diễn ra ngày 24/7 tại Trung tâm Nghiên cứu
Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở Washington D.C., Mỹ, đúng thời điểm Việt Nam
vừa lên tiếng yêu cầu Trung Quốc chấm dứt ngay các hành vi vi phạm Vùng Đặc
quyền Kinh tế (EEZ) và thềm lục địa Việt Nam.
Việt Nam lần đầu tiên phản đối
hành động của nhóm tàu Hải Dương 8 vào ngày 19/7, và lặp lại phản đối vào
ngày 25/7.
Trong khi đó, giới quan sát nhận
định hành vi của Trung Quốc lần này nhất quán với tham vọng và tuyên bố chủ quyền
phi lý của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Tàu khảo sát Hải dương Địa chất 8 của Trung Quốc.
"Các diễn giả của chúng tôi miêu tả một sự đồng thuận đang
tăng lên từ các quốc gia của họ về việc các hành động của Trung Quốc, bao gồm
hành vi ở Biển Đông, đe dọa những phần cơ bản trong trật tự thế giới dựa trên
luật lệ", Gregory Poling, Giám đốc chương trình Sáng kiến Minh bạch Hàng
hải châu Á (AMTI) tại Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế (CSIS) ở
Washington, Mỹ, nói với Zing.vn.
"Nhưng đúng là họ không thể
tìm được sự đồng thuận trong các nước, hoặc trong chính quốc gia của họ, về
việc làm thế nào ứng phó mạnh mẽ trước các hành động của Trung Quốc, hay việc
họ phải chấp nhận bao nhiêu rủi ro để làm việc đó".
Ý đồ của Trung Quốc
Ian Storey,
chuyên gia về Biển Đông tại Viện ISEAS Yusof Ishak (thuộc Đại học Quốc gia
Singapore), nói rằng việc đàm phán Bộ Quy tắc Ứng xử trên Biển Đông (COC)
giữa ASEAN và Trung Quốc tiến triển có một mặt trái là nó hỗ trợ cho hai diễn
ngôn mà Trung Quốc muốn tạo ra trên Biển Đông: Thứ nhất là nó tạo ra cảm giác
"mọi thứ vẫn bình yên", thứ hai là các vấn đề của châu Á nên được
giải quyết chỉ bởi các nước châu Á.
Các bên liên quan đạt được Văn bản
Dự thảo Đàm phán vào tháng 8/2018, dài 19,5 trang A4 và gồm tất cả điều khoản
mà các nước tham gia muốn bỏ vào. Văn bản này không được công khai, chỉ bị rò
rỉ sau đó, theo ông Storey.
Theo văn bản do giới truyền thông
và các chuyên gia tiếp cận được, các bên bất đồng trong nhiều điểm.
Việt Nam muốn yêu cầu các nước
ngưng hoạt động xây đảo nhân tạo và quân sự hóa các cơ sở. Việt Nam cũng muốn
các nước cam kết không tuyên bố Vùng Nhận diện Phòng không (AIDZ) như Trung
Quốc từng làm ở Biển Hoa Đông.
Việt Nam muốn các bên tranh chấp
làm rõ tuyên bố của họ dựa trên UNCLOS. Cùng với Indonesia, Việt Nam kêu gọi
các nước tôn trọng các khu vực hàng hải của các quốc gia có bờ biển, bao gồm
EEZ 200 hải lý, một thách thức trực tiếp đến Đường 9 Đoạn của Trung Quốc, vốn
xâm phạm vào EEZ của Việt Nam, Philippines, Brunei, Malaysia và Indonesia và
đã bị Tòa Trọng tài tuyên là đi ngược lại UNCLOS.
Trong khi đó, Trung Quốc muốn
giới hạn quyền tiến hành các dự án chung chỉ cho Trung Quốc và các quốc gia
ASEAN, loại ra các tập đoàn năng lượng nước ngoài.
Tương tự, Bắc Kinh khuyến khích
các cuộc tập trận chung giữa Trung Quốc và các nước ASEAN nhưng không bao gồm
các hoạt động chung của 11 nước trong COC và bất kỳ quốc gia bên ngoài nào,
nếu không có sự đồng thuận từ trước của 10 nước còn lại.
Điều này về bản chất sẽ trao cho
Trung Quốc quyền phủ quyết mọi hoạt động quân sự giữa Đông Nam Á với Mỹ, Nhật
hay Australia.
"Gộp tất cả những điểm này
lại, chúng ta thấy rằng Trung Quốc không xem họ là một thế lực bên ngoài tại
ASEAN, nhưng lại muốn biến mọi nước khác thành thế lực bên ngoài", ông
Storey nói. "Phần lớn quốc gia Đông Nam Á sẽ thấy các điều khoản này
không thể chấp nhận được, vì nó xâm phạm đến quyền lợi được bảo đảm trong
UNCLOS của họ".
Đồng quan điểm, Prashanth
Parameswaran, biên tập viên chuyên san Diplomat, nói rằng các nước ở Biển
Đông đang đi trên một con đường hai chiều. Một mặt họ có các biện pháp xây
dựng lòng tin như đàm phán COC, có UNCLOS và các cơ chế khác... Ở mặt kia,
nhiều hành động "làm xói mòn lòng tin" vẫn diễn ra liên tục ở Biển
Đông trong cùng thời điểm.
"Nguy cơ đối với các biện
pháp xây dựng lòng tin trong dài hạn và đặc biệt nguy hiểm đối với Biển Đông
là nếu quá trình song song này tiếp diễn, các biện pháp xây dựng lòng tin
(như đàm phán COC, UNCLOS) có thể biến thành biến thành công cụ làm xói mòn
lòng tin", ông nhận định.
"Mỹ và các
nước nên đi xa hơn"
Các chuyên
gia phần lớn đồng ý rằng mối đe dọa đến từ hành vi của Trung Quốc trên Biển
Đông không chỉ nằm ở thương mại, và nó biến các nước ngoài khu vực đều trở
thành bên có lợi ích, không chỉ lợi ích kinh tế mà còn lợi ích nhờ vào một
trật tự dựa trên luật lệ.
Nhóm tác chiến tàu sân bay USS John C. Stennis (CVN-74)
trong một lần hoạt động trên Biển Đông hồi đầu năm 2019, để tiến hành các
hoạt động an ninh trong khu vực. Ảnh: Hạm đội 7.
Jay
Batongbacal, Viện Các vấn đề Hàng hải và Luật biển thuộc Đại học Philippines
và là một diễn giả tại hội thảo, nói với Zing.vn rằng hành vi xâm phạm của
tàu Trung Quốc và EEZ và thềm lục địa Việt Nam của tàu Trung Quốc gần đây là
"rất nghiêm trọng, thậm chí nghiêm trọng hơn sự kiện giàn khoan Hải
Dương-981 năm 2014".
Theo ông, trong ngắn hạn, vụ việc
của tàu Hải Dương 8 sẽ chưa có ảnh hưởng đến tuyến đường hàng hải tại Biển
Đông. Tuy nhiên, trong dài hạn, nó cho thấy việc Bắc Kinh sẵn lòng lờ đi các
luật lệ quốc tế, biến bản thân họ trở thành mối đe dọa tiềm tàng cho mọi hoạt
động hàng hải.
Toshihiro Nakayama, giáo sư tại
Đại học Keio, nói rằng Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc vào thương mại, và Biển
Đông là một "huyết mạch" quan trọng của Nhật Bản. Nếu hàng hóa của
Nhật Bản bị tắc lại khi đi qua EEZ của các nước, họ sẽ bị tổn thương.
"Dù Nhật Bản không có các
chiến dịch tuần tra tự do hàng hải (FONOP), chúng tôi có tham gia các cuộc
tập trận chung. Theo tôi biết thì Mỹ chưa mời Nhật Bản cùng tham gia FONOP,
nó sẽ tạo ra một vài cuộc thảo luận nội bộ tại Nhật Bản, nhưng chúng tôi, khá
là rõ ràng, đã ủng hộ các hoạt động FONOP của Mỹ", ông nói.
"Nhưng có một sự chần chừ,
dè xẻn và thoái lui từ Mỹ, và nó làm dịch chuyển cân bằng vốn có. Nhật Bản
rất lo lắng về điều đó".
Bộ Ngoại giao Mỹ ngày 20/7 đã lên
án việc Trung Quốc can thiệp vào “các hoạt động thăm dò và khai thác từ lâu
của Việt Nam” trên Biển Đông.
“Trung Quốc nên dừng ngay các
hành động bắt nạt và không thực hiện các hành vi khiêu khích, gây bất ổn”,
người đại diện Bộ Ngoại giao Mỹ nhấn mạnh.
Trả lời Zing.vn, giáo sư Carl
Thayer của Học viện Quốc phòng Australia nói rằng, Mỹ và các nước nên đi xa
hơn, thúc đẩy hợp tác giữa lực lượng cảnh sát biển, cơ quan thực thi pháp
luật trên biển giữa các nước có tranh chấp và các cường quốc bên ngoài, phát
triển năng lực bảo vệ chủ quyền quốc gia, quyền chủ quyền và quyền tài phán ở
EEZ của mỗi bên.
Vấn đề không chỉ là tự do thương mại
Sarah
Kirchberger, nhà nghiên cứu tại Trung Tâm An ninh và Chiến lược châu Á - Thái
Bình Dương thuộc Đại học Kiel (Đức), nói rằng cho đến gần đây, người châu Âu
ít khi quan tâm đến Biển Đông, nhưng nhiều nước châu Âu lại dựa vào xuất
khẩu, và sử dụng đường biển này. Tuy nhiên, quan trọng hơn, các nhà nghiên
cứu châu Âu nhìn vấn đề Biển Đông trong xu hướng lớn hơn, và các hành động
quân sự hóa, bắt nạt của Trung Quốc trên Biển Đông báo hiệu những xu thế đáng
lo ngại.
Bà Kirchberger liên hệ những cơ sở
đang được Trung Quốc xây dựng trái phép trên Biển Đông với căn cứ tàu ngầm
chiến lược ở Hải Nam.
"Việc này không phải để dọa
dẫm một vài ngư dân".
"Nếu bạn gộp tất cả những
chi tiết lại, câu trả lời là có một lợi ích lớn đằng sau khoản đầu tư khổng
lồ, và ý tưởng có thể là xây dựng một hệ thống phục vụ chiến tranh du kích
dưới mặt nước", chuyên gia Đức nhận định.
Mỹ nói Trung Quốc ngăn chặn phát triển kinh tế ở Biển
Đông bằng cách cưỡng ép. Ảnh: AFP.
Về phía châu
Âu, bà Kirchberger nói rằng "việc chúng tôi có thể làm là theo dõi sự
việc sát sao hơn, đưa ra một vài hỗ trợ mang tính biểu tượng để đề cao luật
pháp quốc tế".
"Tôi nghĩ Pháp là nước có vị
thế thuận lợi nhất trong khối để tham gia vào các chiến dịch FONOP, họ là một
quốc gia Thái Bình Dương, có hiện diện quân sự đáng kể ở Thái Bình Dương, họ
có kinh nghiệm, có hải quân tốt nhất. Nếu có một cơ chế đa phương diễn ra,
tôi nghĩ nó nên đặt dưới sự lãnh đạo của Pháp vì họ thường xuyên ở trong khu
vực đó".
Bec Strating, giảng viên ngành
Chính trị học tại Đại học La Trobe, nói rằng mối quan tâm đầu tiên của
Australia đối với Biển Đông là sự ổn định khu vực, tuy nhiên nước này cũng
đứng trước ảnh hưởng kinh tế của Trung Quốc.
Theo bà, 2/3 hàng hóa xuất khẩu
của Australia đi ngang qua Biển Đông. Ở mặt khác, con số này gây tranh cãi
chính bên trong Australia rằng hàng hóa thường đi và đến chủ yếu Trung Quốc,
nên Trung Quốc sẽ không làm tổn hại tuyến đường này vì lợi ích của chính họ.
Australia cũng có quan ngại Trung
Quốc sẽ dùng các lợi thế kinh tế (về hàng hóa, khách du lịch, du học sinh) để
trừng phạt Australia nếu nước này có lập trường không hợp ý Bắc Kinh trong
vấn đề Biển Đông.
Tuy nhiên, đó là cái nhìn ngắn
hạn, trong dài hạn, Australia, cũng như Ấn Độ, hưởng các lợi ích kinh tế nhờ
vào việc duy trì tự do hàng hải, đặc biệt ở các tuyến đường huyết mạch.
"Tôi tin rằng lợi ích quan
trọng nhất của Australila phải nằm ở một trật tự dựa trên luật pháp, và các
diễn ngôn về quan hệ đối ngoại của Australia thật sự nhấn mạnh ý này. Vì vậy,
Biển Đông là một phần nhỏ hơn trong quan ngại lớn hơn về sự thay đổi cán cân
quyền lực trong khu vực, cũng như vai trò tiếp tục của Mỹ, và đây cũng là một
phần trong ý tưởng về Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương của Australia", bà
nói.
"Câu hỏi thật sự là sự xói
mòn luật lệ hàng hải có hạ thấp tính chính danh của UNCLOS hay không?".
Ông Batongbacal nói rằng đối với
sự kiện tàu Hải Dương 8, bên cạnh các tuyên bố ngoại giao, các nước có thể
cân nhắc sử dụng trừng phạt thương mại và kinh tế, "nhưng để cách này có
hiệu quả, cần có một liên minh các quốc gia có cùng chính kiến".
"Nếu không, Trung Quốc sẽ
đơn giản sử dụng chiến thuật chia và trị, vô hiệu hóa các lệnh trừng phạt và
tiếp tục các hành vi trái phép".
(Theo Zing.vn) Vy Xuân
|
Thứ Sáu, 26 tháng 7, 2019
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét