QUAN THẾ NÀY, DÂN TRÔNG CẬY VÀO ĐÂU ?
Cập nhật lúc 15:32
Tháng Bảy năm Nhâm Tý, đời Vua Tự Đức (khoảng
tháng 8 năm 1852), tại nha huyện Trà Vinh, phủ Lạc Hóa, tỉnh Vĩnh Long có một
tù nhân phạm tội ăn trộm, bị giam trong nhà lao rồi ốm chết. Trương Phúc
Cương là Tri phủ nghe tin đã đến tận nơi xem xét. Thay vì xem xét thận trọng
để làm tờ tâu lên trên về nguyên nhân cái chết của phạm nhân, Trương Phúc
Cương đã dùng quyền của quan trên để dọa nạt viên quan đứng đầu huyện Trà
Vinh là Tri huyện Phan Đắc Thông rằng, chính Thông đã đánh đập phạm nhân đến
chết và Cương sẽ bẩm báo việc này lên tỉnh để quan trên xử lý (!?). Lo sợ
phải “mang tội”, Phan Đắc Thông đã đi vay tiền của rất nhiều người để đút lót
Phúc Cương, mong được quan phủ “im đi” cho.
Song vụ việc trên đã lọt đến tai một số quan tỉnh và họ đem
việc ấy tâu về Kinh đô Huế. Vua Tự Đức đọc kỹ lời tâu, liền lệnh cho giải
chức của Trương Phúc Cương ngay và giao cho các quan tỉnh tra xét.
Trương Phúc Cương bèn làm đơn giải trình.
Trong đơn, không những không nhận tội, mà còn khẳng định những lời tham hặc
của các quan tỉnh đối với ông ta là bịa đặt; hơn nữa Cương còn tố giác những
việc làm sai trái của các quan trong tỉnh, đứng đầu là Tuần phủ Nguyễn Hữu
Cơ; sau đo sai con đem đơn đến tỉnh Định Tường nhờ quan tỉnh này kêu giúp !
Vua Tự Đức bèn phái một đoàn thanh tra đứng
đầu là Quyền Tuần phủ tỉnh Gia Định Phan Thanh Giản và Khoa đạo Phan Đình
Tuyển về phủ Lạc Hóa để tra xét, làm rõ thực hư. Sau một thời gian, các quan
thanh tra triều đình đã khẳng định với đầy đủ chứng cớ, Trương Phúc Cương
không chỉ dùng cường quyền để dọa nạt, bức bách, buộc Tri huyện Phan Đắc
Thông phải “làm luật” cho mình tới 460 quan mà còn với rất nhiều người khác.
Cũng với cách “làm tiền” như vậy, Cương còn phạm một loạt tội nghiêm trọng,
gây họa cho nhiều người. Tại một làng nọ, có người phụ nữ vì giận chồng mà
nông nổi, dại dột tự chọn cái chết cho mình. Do thiếu hiểu biết, dân làng ấy
đã không cho người lên báo với quan trên về khám nghiệm tử thi, mà đem mai
táng ngay. Cương dựa vào đó đã bức bách, doạ nạt họ là “làm sai luật”, sẽ bẩm
báo lên quan trên để “trị tội nặng tất cả những người phạm tội”. Lo sợ bị vạ,
dân làng ấy nhà nhà phải vội vàng bán thóc lúa, đồ đạc, góp tiền, thậm chí có
người không có đồ đạc gì đáng giá, phải bán vợ đợ con để có tiền nộp cho
Cương !
Một vụ nghiêm trọng khác là một người buôn
ở làng nọ trên đường đi buôn bị một tên cướp chặn lại và cướp của. Nhưng
người buôn đó đã khôn khéo bắt được tên cướp và giao lại cho quan phủ. Lạ
thay, Tri phủ Trương Phúc Cương không những không xử hoặc giao xử tội tên
cướp kia, tâu báo vụ việc lên trên; mà còn mớm lời rồi cưỡng ép tên cướp khai
man rằng, chính người buôn kia cướp của, do vậy người buôn đó phải cống nạp
cho Cương để mong tránh tội ! Cả các chánh phó tổng, lý trưởng, phó lý trong
vùng cũng là nạn nhân của cách “làm luật” của quan Tri phủ Cương với đủ các
nguyên cớ và hình thức. Tính ra, Cương đã tham tang, trấn lột bằng kiểu này
tới 126 lạng bạc. Không những vậy, Cương còn dung túng cho con em và những
người thân thuộc trốn lính.
Bộ Hình cùng các quan kham sai nghị án,
buộc Cương phải chịu tội giảo giam hậu (bị hình phạt thắt cổ cho chết, nhưng
còn giam lại đợi phúc tra lại). Nhưng Vua Tự Đức đổi thành mức giảo quyết
(thắt cổ cho chết ngay) để “răn kẻ tham tang, lợi dụng chức quyền làm bậy,
cho hả lòng dân”. Phan Đắc Thông vì không tố giác hành vi sai trái của Cương,
lại làm việc hối lộ nên phạt tội mãn trượng (đánh 100 gậy) và mãn đồ (làm lao
dịch với các công việc nặng nhất).
Lời bàn:
Hình phạt từ “giảo giam hậu” mà các
quan bộ Hình đưa ra, được Vua Tự Đức đổi thành “giảo quyết” là sự trừng phạt đích
đáng, nghiêm khắc, đủ tính răn đe đối với hành động “coi trời bằng vung” của
kẻ gian tham, cường hào hay loại “quan lưu manh” Trương Phúc Cương.
Từ câu chuyện trên đây, có thể luận bàn
thêm một vấn đề quan trọng khác : vì sao Tri phủ Trương Phúc Cương có thể
lộng hành, có hàng loạt hành vi sai trái, vi phạm pháp luật đến mức trở thành
một vị “quan cường hào, lưu manh”, không chỉ người dân mà cả quan lại dưới
quyền cũng phải khiếp sợ ? Điều này liên quan đến thể chế quan trường, thể
chế công vụ và thanh tra, giám sát của nhà nước phong kiến.
Trương Phúc Cương “làm bậy” được trước hết
là do lỗi của các quan lại thuộc quyền của viên Tri phủ này, từ Tri huyện
Phan Đắc Thông đến các lại viên trong phủ huyện, xuống các tổng lý ở các làng
xã. Họ là những người được học, được đào tạo, ít nhiều nắm được pháp luật,
hiểu được nguyên tắc thể chế của việc thanh tra, nhất là những điều luật về
đàn hặc, tố cáo được nhà nước phong kiến quy định. Vậy mà, họ không những đã
không dựa các điều luật, nguyên tắc đó để tố cáo các hành vi sai trái, phạm
tội của Tri phủ Trương Phúc Cương, mà còn dùng tiền bạc để hối lộ Cương.
Chính sự thiếu dũng khí, dẫn đến làm sai luật của các quan, lại viên trong
phủ huyện, các tổng lý làng xã đã “tiếp sức” cho Trương Phúc Cương, để viên
quan này tiếp tục, ngang nhiên và thỏa sức thực hiện các hành vi làm luật đến
mức trắng trợn, lưu manh của mình.
Thứ hai, khi các quan huyện, các lại viên,
các tổng lý còn thiếu dũng khí trước uy quyền của Trương Phúc Cương, rồi vi
phạm pháp luật như vậy thì người dân đã bị Cương “làm u mê’ cũng là điều dễ
hiểu, bởi họ không hiểu biết pháp luật, không đủ sức “đối trọng” với những vị
quan có uy quyền nhưng đầy thủ đoạn mưu mô, lại càng không biết được và không
có đủ các điều kiện để thực hiện “đường đi nước bước” của việc tố cáo các
hành vi sai trái của quan lại; chưa kể, nhiều người dân thừa hiểu rằng, “thà
mất tiền còn hơn đi kiện quan”, nên đành “đám miệng quan” để được “yên thân,
êm chuyện”.
Thứ ba, việc Trương Phúc Cương mặc sức lộng
hành trấn lột trong một thời gian dài, trên một vùng rộng lớn, còn có nguyên
do của việc thanh tra thường xuyên hầu như “vắng bóng”. Trước sự lộng hành
của Trương Phúc Cương; sự ấm ức của các quan và lại viên trong phủ huyện, các
tổng lý ở làng xã; sự đau khổ, nỗi kinh hoàng của người dân trong một thời
gian dài, vậy mà không hề có những bóng “ngựa vằn” (ngựa của các quan Ngự sử,
tức quan làm nhiệm vụ thanh tra thường xuyên) lui tới. Chính điều này đã
“tiếp sức” cho Trương Phúc Cương “vững tin” hơn trong việc thực hiện các hành
vi trấn lột của mình.
Từ câu chuyện trên cho hay, để hạn chế sự
tha hóa, lộng quyền của quan lại, nhanh chóng phát hiện các việc làm sai trái
của họ và đưa ra xét xử, phải tạo ra “quan khí” và “dân khí” (tức thái độ
cương quyết, khí thế và bản lĩnh của quan lại và người dân trước các hành vi
sai phạm của quan trên). Để làm được việc đó, phải có được các quy định cụ
thể bảo đảm quyền tố cáo cho người dân và quan lại, đặt ra các điều kiện để
bảo đảm cho các nguyên tắc đó thành hiện thực, đi vào cuộc sống; công tác
thanh tra phải tiến hành thường xuyên, làm chỗ dựa vững chắc để dân và các
quan, lại viên chân chính đấu tranh với những hành vi sai trái của quan trên.
(Theo Tễu blog) Bùi Xuân Đính
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét