Quyền mặc cả của FDI: Mối quan hệ than
hữu và lợi ích nhóm
Cập nhật lúc 06:34
(Doanh
nghiệp) - Trục trặc lớn nhất của Việt
|
![]() |
| Khó hạn chế quyền đòi hỏi của doanh nghiệp FDI |
Tuy nhiên,
chính sách thu hút đầu tư nước ngoài chỉ nên ưu tiên cho những nhà đầu tư có
khả năng tạo ra các tác động lan tỏa tích cực cho cả nền kinh tế, đối với
những nhà đầu tư thông thường khác, không nhất thiết phải quá vồn vã, nhất là
trong bối cảnh hiện nay. Tóm lại, khi thu hút đầu tư nước ngoài vấn đề lợi
ích cần được tính toán dựa trên lợi ích chung cho toàn xã hội chứ không dựa
trên lợi ích của một số người hay một cá nhân nào đó.
Nguyên tắc là
như vậy, nhưng thực tế nghiên cứu từ trước tới nay cho thấy một vấn đề trục
trặc lớn đang xảy ra trong điều hành vĩ mô. Trong cơ cấu nền kinh tế, khu vực
được cho là có đóng góp lớn nhất, có động lực thúc đẩy kinh tế phát triển
nhiều nhất chính là khu vực doanh nghiệp tư nhân chứ không phải doanh nghiệp
FDI, càng không phải là khu vực DN nhà nước. Đây mới chính là nền móng phát
triển kinh tế của mỗi quốc gia. Vì vậy, nếu xét về thứ tự ưu tiên khu vực này
lẽ ra phải đứng ở vị trí số 1.
Ở Việt Nam thứ tự ưu
tiên trong nhiều năm qua đang bị đảo ngược. Khu vực doanh nghiệp nhà nước
được cho là tiêu tốn nhiều nguồn lực nhất nhưng hiệu quả lại thấp nhất thì
đang nhận được vị trí ưu tiên số 1. Thứ hai là các DN FDI và cuối cùng mới
tới những doanh nghiệp tư nhân trong nước.
Nhóm DN tư nhân
trong nước lại chia làm hai nhóm. Nhóm có quan hệ thân hữu, hay những doanh
nghiệp sân sau vẫn đang nhận được ưu đãi nhất định. Riêng nhóm doanh nghiệp
tư nhân đang tự thân nỗ lực khai thác sức mạnh cạnh tranh ngay tại thị trường
trong nước nhưng không có quan hệ thì đang đứng cuối cùng bảng thứ tự ưu tiên
và phải chịu nhiều thiệt thòi nhất. Đây chính là nghịch lý ngược, gây ra
nhiều tác động tiêu cực tới khu vực kinh tế trong nước.
Dễ thấy, một
chính sách đặt quá nhiều ưu đãi cho FDI chưa hẳn sẽ tốt cho nền kinh tế nước
đó, cụ thể ở đây là Việt Nam .
Trong nhiều năm mở cửa, thu hút vốn đầu tư nước ngoài nhưng sự lan tỏa, tính
liên kết giữa doanh nghiệp FDI với doanh nghiệp trong nước gần như không đạt
được kết quả như kỳ vọng.
Một nguyên tắc
hiển nhiên là khi nguồn ngân sách có hạn, nền kinh tế gặp nhiều khó khăn nếu
ưu đãi quá nhiều cho người này sẽ phải cấu vào của người khác. Nghĩa là nguồn
lực sẽ phải co kéo chỗ nọ bù cho chỗ kia hay nói cách khác, ưu đãi cho DN FDI
một, doanh nghiệp trong nước sẽ khó khăn thêm một.
Việc đặt ra yêu
cầu phải hạn chế “quyền đòi hỏi” của các DN FDI là rất khó. Muốn hạn chế được
quyền đòi hỏi của DN FDI, trước tiên phải phân tích được lợi thế cạnh tranh
của mình trong từng lĩnh vực, từng địa phương cụ thể. Nếu lợi thế của Việt Nam là ưu
tiên hàng đầu với DN FDI và không cần ưu đãi họ vẫn phải vào thì dứt khoát
không sử dụng chính sách ưu đãi nữa.
Nhưng ở Việt Nam trước nay
việc đánh giá lợi thế so sánh còn yếu mới dẫn tới tình trạng chính sách quản
lý cứ phải chạy theo đòi hỏi ưu đãi của các doanh nghiệp FDI. Làm được như
vậy phải phụ thuộc vào năng lực, trình độ của cơ quan quản lý có đủ khả năng
để đánh giá, phân tích được lợi thế của mình hay không?. Khi chưa làm được
như vậy thì chưa thể đặt vấn đề hạn chế “quyền mặc cả” với DN FDI.
PV:- Nhìn vào
những con số thống kê (xuất khẩu, đóng góp vào tăng trưởng GDP), không thể
phủ nhận vai trò quan trọng của doanh nghiệp FDI, trong khi, việc thu hút FDI
vào Việt Nam càng ngày sẽ càng khó khăn hơn do những nguyên nhân khách quan
(kinh tế thế giới suy giảm) và chủ quan (bản thân môi trường đầu tư ở VN còn
nhiều vấn đề bất cập). Liệu đây có phải là lý do chính khiến chúng ta khó mà
nói không với các doanh nghiệp loại này hay không, thưa ông? Và như vậy có
đồng nghĩa, vấn đề chúng ta được gì từ doanh nghiệp FDI chưa nên đặt ra lúc
này?
Ông Huỳnh Thế Du: - Về
nguyên tắc khi thu hút FDI vấn đề lợi ích luôn phải đặt trong tổng thể lợi
ích chung của cả quốc gia, nhất là trong bối cảnh hội nhập, Việt Nam đang cần
thu hút đầu tư nước ngoài.
Rõ ràng không thể phủ nhận vai trò của
DN FDI với nền kinh tế Việt Nam .
Tuy nhiên, chính sách ưu đãi hiện nay đang thiên về hướng theo kiểu loại trừ.
Tức là chỉ một vài trường hợp được hưởng ưu đãi, còn phần đông dân chúng hay
cả nền kinh tế Việt Nam
không được gì cả. Cách thức ưu đãi cụ thể theo từng trường hợp như hiện hay
vô hình trung làm tổn hại đến cả nền kinh tế, nhất là nhìn trên bình diện
quốc gia. Vì vậy, nếu để cân bằng lợi ích giữa doanh nghiệp trong nước và
doanh nghiệp nước ngoài như tôi đã nói, quyền chủ động phụ thuộc vào năng
lực, điều hành của bộ máy, hệ thống quản lý.
Thực tế, việc đưa ra giới hạn ưu đãi là
không hợp lý và không thể thực hiện được do yêu cầu, mục tiêu thu hút của mỗi
địa phương khác nhau. Thêm vào đó là đặc điểm của từng ngành, từng lĩnh vực
cũng khác nhau do đó, nếu xây dựng được bộ máy phân tích, đánh giá năng lực,
lợi thế của mình nó sẽ là chìa khóa hạn chế “quyền đòi hỏi” của các doanh
nghiệp này một cách hiệu quả nhất.
PV:- Xét một
cách toàn diện hơn, doanh nghiệp trong nước VN đang bị lép vế hoàn toàn trước
doanh nghiệp FDI (do không được ưu đãi). Thời hạn mở cửa hoàn toàn thị trường
đang tiến tới rất gần, hàng Việt sẽ phải cạnh tranh sòng phẳng với hàng hóa
nhiều nước. Nếu không có biện pháp thiết thực hỗ trợ doanh nghiệp Việt, viễn
cảnh rất nhiều doanh nghiệp Việt sẽ không thể tồn tại trên sân nhà có thể xảy
ra hay không, thưa ông?
Ông Huỳnh Thế Du: - Tôi cho
rằng, trục trặc lớn nhất của Việt Nam không nằm ở chính sách hỗ
trợ. Vấn đề ở đây là thứ tự ưu tiên và vấn đề lựa chọn phân bổ nguồn lực
không dựa trên hiệu quả, không dựa trên sức cạnh tranh mà lại dựa trên mối
quan hệ thân hữu và lợi ích nhóm… Những bất cập này là nguyên nhân làm triệt
tiêu mọi động lực sáng tạo, năng lực cạnh tranh cũng như giá trị gia tăng của
các doanh nghiệp tư nhân trên toàn lãnh thổ Việt Nam . Yếu tố này quan trọng hơn
cả.
Do đó, phải có tiêu chí chung. Ưu đãi
phải dựa trên hiệu quả, không phân biệt đó là DN nào. Từ những tiêu chí cụ
thể sẽ có những ưu tiên, ưu đãi cụ thể cho từng doanh nghiệp, từng lĩnh
vực.
PV:- Vậy theo
ông, trong thế khó hiện nay kinh tế Việt Nam có bị phụ thuộc vào doanh
nghiệp FDI hay không? Điều đó sẽ gây nên những hệ lụy gì?
Ông Huỳnh Thế Du: - Tôi cho
rằng giả thiết này hoàn toàn không có khả năng xảy ra với nền kinh tế của
Việt Nam .
Việt Nam
cũng không có xu hướng phụ thuộc vào FDI.
FDI so với các thành phần kinh tế trong
nước hiện chỉ đóng vai trò, tỉ trọng rất khiêm tốn kể cả trong lĩnh vực công
nghiệp, xuất khẩu hay việc làm. Tôi không phủ nhận FDI là thành phần quan
trọng trong phát triển kinh tế của Việt Nam, nhưng nếu nói sự quan trọng đó
sẽ khiến nền kinh tế Việt Nam bị phụ thuộc vào FDI là hoàn toàn không
thể.
PV:- Nhưng
CIEM cũng thừa nhận để tái cân bằng giữa DN trong nước và nước ngoài là vô
cùng khó. Ưu đãi DN trong nước thì không được vì tốn kém, chưa kể bản thân
doanh nghiệp trong nước phải nỗ lực rất nhiều thì mới có thể bắt kịp trình độ
sản xuất của các doanh nghiệp nước ngoài. Vậy Việt Nam nên làm thế nào để
doanh nghiệp trong nước có thể đứng được, đồng nghĩa với nó là sự tự chủ của
nền kinh tế? Bắt đầu từ bây giờ đã muộn chưa, thưa ông?
Ông Huỳnh Thế Du: Theo tôi, điều
này không đáng lo ngại. Trong từng bối cảnh cụ thể, từng doanh nghiệp, từng
lĩnh vực kinh doanh nếu biết khai thác lợi thế và tập trung vào phát triển
lợi thế của mình họ sẽ thành công. Với Việt Nam cũng vậy, mọi cơ hội vẫn đang
nằm nguyên phía trước, mọi sự thay đổi sẽ không bao giờ là muộn. Vấn đề là có
muốn làm và có làm hay không mà thôi.
PV:- Xin cảm ơn ông!
(Theo Đất Việt)
Vũ Lan

Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét